Mc 1, 21-28
Đọc Tin Mừng của Chúa Giêsu luôn luôn chúng ta nhận ra một Chúa Chúa Giêsu đầy tình thương, hay chạnh lòng thương xót, nhưng cũng là một Chúa luôn đầy quyền năng và có sức mạnh siêu phàm.Lời của Chúa luôn có sức mạnh giải thoát và cứu rỗi. Đọan Tin Mừng của thánh Marcô 1, 21-28 nói lên điều đó. Chúng ta hãy đi vào cốt lõi của đọan Tin Mừng này và ý của Chúa nhật 4 thường niên, năm B nhắm tới.
NHỮNG VIỆC KHÓ KHĂN CHÚNG TA NHẬN RA:
Sống ở đời, chắc chắn không ai mà không có lúc gặp phải vấn đề khó nan giải: vấn đề khó khăn có thể do mình gây ra, có thể do người khác, do môi trường, do bối cảnh ảnh hưởng đến mình. Ngộ dả lúc đó, có một ai đó giúp mình giải quyết được khó khăn ấy, chắc chắn mình sẽ sung sướng, phấn khởi biết chừng nào. Việc bà Anna không con, bà Elisabeth không thể thụ thai trong lúc cao niên và việc ma quỷ ám, ma quỷ quấy rầy mà các bản Kinh Thánh thuật lại, quả đó là những sự khó khăn ngoài tầm tay của con người. Việc bà Anna, bà Isave được Thiên Chúa nhậm lời cho thụ thai, sinh con trai, bà Anna và chồng bà, ông Giacaria và bà Isave rất vui mừng và tràn đầy sung sướng. Người bị quỷ ám, thân nhân của anh và những người Do Thái chứng kiến Chúa chữa lành cho anh ta, chắc chắn họ đều hạnh phúc và vui mừng. Bởi đây là dấu chứng Thiên Chúa yêu thương con người và dùng quyền năng để cứu giúp những kẻ khốn khó, những kẻ bất hạnh vv…
CON NGƯỜI CHỈ CÓ GIỚI HẠN TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT NHỮNG BẤT HẠNH, NHỮNG KHÓ KHĂN TRONG CUỘC SỐNG:
Với đà tiến của văn minh nhân loại, với khoa kỹ thuật càng ngày càng cao, con người có thể càng lúc càng giải quyết được nhiều khó khăn trong cuộc sống. Nhiều vụ việc, nhiều vấn đề, nhiều nỗi khó khăn trong cuộc sống xem ra không còn là nan giải, không thể tìm ra lời giải đáp nữa. Và xem ra khoa học, y khoa, tâm lý càng ngày càng đẩy lùi được nhiều những nỗi bất hạnh, những ám ảnh của cuộc sống. Tuy nhiên, một sự thực hiển nhiên chúng ta phải công nhận dù con người có tài giỏi đến đâu, khoa học có lên cao mấy đi nữa thì còn biết bao khó khăn, biết bao vấn đề vẫn là nỗi ám ảnh của con người không thể giải quyết nổi chẳng hạn như tội lỗi, sự dữ, những thói hư nết xấu. Tất cả những điều ấy, những vấn đề ấy khoa học và con người vẫn không làm sao giải quyết được.
ĐỨNG TRƯỚC NHỮNG VẤN ĐỀ NAN GIẢI ẤY CON NGƯỜI PHẢI LÀM GÌ ?:
Trước những vấn đề nan giải ấy, con người chỉ có một cách là đến với Thiên Chúa. Đọan Tin Mừng hôm nay muốn nói đến uy quyền của Lời Chúa: ” Người giảng dạy như Đấng có uy quyền chứ không như các luật sĩ “( Mc 1, 22 ). Chúa có uy quyền bởi vì Ngài dùng quyền của Ngài để giảng dạy chứ không dùng thế giá, dùng quyền của người khác. Chúa hoàn toàn khác với bọn Biệt phái và Luật sĩ luôn chỉ gò bó luật lệ theo cái nhìn, theo sự suy nghĩ của họ. Lời của Chúa là một giáo lý mới. Chính sự mới mẻ của Lời Chúa làm cho nhiều người tin nhận chúa là Đấng Cứu Thế và do đó, danh tiếng của Ngài vang dội khắp vùng Galilêa. Lời của Chúa khiến cho các thần ô uế phải vâng theo ( Mc 1, 27 ). Do đó, Lời của Chúa có tính cách cứu rỗi. Lời của Chúa không chỉ có uy quyền lúc Chúa Giêsu đang giảng dạy nhưng Lời của Ngài đang có trong hiện tại của Giáo Hội.
ÁP DỤNG VÀO THỰC TẾ:
Càng đọc Tin Mừng, càng có đức tin, chúng ta càng thấy sức mạnh của Lời Chúa và uy quyền của Chúa Giêsu. Chính vì thế ai biết đón nhận, biết tin theo, biết thực thi Lời của Chúa thì chắc chắn sẽ thoát được các bất hạnh trong đời sống, nhất là đời sống tinh thần và thiêng liêng. Chúng ta chân thành cầu nguyện như cha mẹ ông Samson, cha mẹ ông Giacóp, cha mẹ của Giuse, của Maria và của bà Anna, chắc chắn sẽ nhận được sự trợ giúp của Chúa. Do đó, sống Lời Chúa, chính là soi mình vào Chúa Giêsu: ” Lời Chúa là đèn soi cho con bước.Là ánh sáng chỉ đường cho con đi “( Tv 118, 105 ).
Lạy Chúa, xin củng cố lòng tin cho chúng con để chúng con luôn nhận ra uy quyền và sức mạnh của Lời Chúa. Amen.
Chúa Nhật IV B (Mc 1, 21-28)
Bài đọc I trích trong sách Đệ nhị luật. Đnl là cuốn cuối trong bộ Ngũ Thư. Năm cuốn sách đầu của bộ Kinh Thánh gọi là Ngũ Thư.
Do Thái coi Ngũ Thư là Torah (Luật) vì trong đó gồm tất cả mọi lề luật và định chế chi phối toàn bộ sinh hoạt tôn giáo, phụng tự, đạo đức, xã hội của dân tộc Israel. Nét nổi bật là Luật do chính Chúa truyền qua trung gian Môisê và mọi điều khoản của Luật xuất phát từ những nhận thức tôn giáo của dân. Có thể nói đây là sưu tập và tổng hợp những luật dân sự, hình sự, tôn giáo, tế tự và xã hội được trình bày như hiến chương của Giao ước. Do đó, việc công bố Luật gắn liền với trình thuật các biến cố trong hoang địa, nơi ký kết Giao ước. Luật là cho con người, vì thế cần phải được thích nghi với những điều kiện thay đổi của môi trường và thời đại. Do đó, ta gặp thấy trong bộ luật những yếu tố cổ xưa đan kết với những điều khoản mới phát sinh về sau. Đàng khác, ta còn gặp thấy trong bộ luật những điểm tương tự với luật Lưỡng Hà. Điều ấy là tất nhiên, vì Do Thái sống chung đụng với chư dân; lại nữa một số pháp quy, tục lệ của miền ấy dần biến thành sản nghiệp chung của cả Cận Đông cổ thời. Torah gồm những bộ luật sau đây: a. Thập điều: Mười Lời được ghi khắc trên bảng đá, làm thành Lề luật căn bản về luân lý và tôn giáo, được coi như điều khoản của Giao ước Sinai. Thập điều được trình bày hai lần (Xh 20,2-17 và Đnl 5,6-18). Chắc chắn hai bản văn đều xuất phát từ một nguồn nguyên thủy mà truyền thống gán cho Môisê. b. Bộ luật giao ước (truyền thống E): Xh 20,24–23,9. Bộ luật này nằm xen kẻ giữa Thập điều và phần kết của trình thuật giao ước tại Sinai. Luật giao ước đáp ứng hoàn cảnh một xã hội sau thời Môisê, chuyên về canh nông trồng trọt; cho nên quan tâm đến súc vật cày bừa, công việc đồng áng, nghề trồng nho, nhà cửa (giả thiết dân đã định cư). Bộ luật thấm nhuần tinh thần tin vào Giavê, phản ứng lại nền văn minh Canaan.
c. Bộ Luật Đệ Nhị Luật (Đnl 12,1–26,15) làm thành phần chính yếu của sách Đệ Nhị Luật. Bộ luật này lấy lại một phần bộ luật giao ước, nhưng thích nghi với cuộc sống kinh tế và xã hội đã đổi thay. Nét nổi bật trong Luật Đnl là quan tâm bảo vệ người yếu, tuyên xưng uy quyền Thiên Chúa trên đất và trên dân của Người, cổ vũ việc tuân giữ các điều khoản của lề luật. d. Luật Lêvi. Sách Lêvi được hình thành dứt khoát sau lưu đày, gồm những luật về phụng tự, như của dâng tiến và việc tế lễ (1-7), cấp bậc Tư tế (8), các đại lễ (23), nơi thánh và các vật dụng thánh (25); luật về thức ăn (11), sự trong sạch (13-15), lễ xá tội (Yôm-Kippour) (16); luật về sự Thánh thiện (17-16).
Ngũ Thư vừa là một lịch sử và là luật pháp. Nếu các Thánh Vịnh ca tụng Thiên Chúa và kêu xin Người cứu giúp; các sách Khôn Ngoan nhằm giáo dục cá nhân về tôn giáo và luân lý; các Ngôn Sứ mạnh mẽ tuyên rao lòng thành tín của Chúa và hăng hái vạch trần tội lỗi của Israel … Ngũ Thư giới thiệu cho ta một dân tộc, cách thế Thiên Chúa thiết lập dân ấy, bảo vệ và dẫn đưa dân về một định mệnh kỳ diệu. Ý nghĩa của bộ sách này hệ tại mối liên lạc Thiên Chúa nối kết với dân của Người và qua đó với toàn thể nhân loại. Lịch sử mối tương quan ấy được tóm kết trong bốn điểm chính là Lời hứa - Tuyển chọn làm dân riêng - Giao ước - Lề luật. Đây là bốn chủ đề quan trọng được triển khai trong Ngũ Thư và suốt dọc dài Cựu ước. Chính Đức Kitô mới ban cho lịch sử cứu độ ý nghĩa trọn vẹn của nó, như Phaolô trình bày trong Gl 3,15-29. Ngài đến thực hiện các lời hứa của Thiên Chúa, ký kết Giao ước mới với đoàn dân mới là miêu duệ của Abraham trong đức tin. Ngài ban lề luật mới là Tin Mừng và Thần Khí để dẫn đưa mọi kẻ tin về với Thiên Chúa.
Sách Đệ Nhị Luật là một lược tóm lịch sử tôn giáo của Israel khởi từ Sinai, trong đó điều then chốt là phải trung thành phụng sự Giavê, Thiên Chúa duy nhất và chân thật. Nội dung của sách sưu tập lại luật Môisê, đồng thời kể lại một số biến cố xảy ra tại Môáp. Trình thuật mang hình thức ba bài diễn từ của Môisê phát biểu vào cuối đời, với dụng ý quả quyết: tư tưởng chủ yếu trong sách là của Môisê. Đệ Nhị Luật được coi như sách kỷ yếu: nhắc lại để nhớ, nhớ để rút bài học. Bài học chủ yếu của tác giả là: nhắc cho Israel quá khứ lịch sử của nó là một chuỗi hồng ân liên tục Chúa ban cho họ cách nhưng không. Nay ở ranh giới Hứa địa, họ đừng quên mọi thành công xưa đều nhờ Giavê. Từ nhận thức đó, họ chuẩn bị vào Đất Hứa trước hết bằng lòng tin tuyệt đối vào Giavê.
Dân Do thái sắp đi vào Đất Hứa, miền đất này nơi nào cũng có tà giáo. Các tôn giáo sơ khai của các dân tộc xung quanh luôn hấp dẫn. Đặc biệt là các thầy bói, bà đồng. Dân chúng mê tín luôn tìm đến với họ để được giao cảm với thần minh, để biết ý trời và hậu vận. Người có óc khoa học ngày nay coi đó là bịp bợm, người có đức tin chân chính nghĩ đó là những việc do ma quỉ bày đặt ra. Bởi đó, tác giả sách Đnl cảnh giác dân chúng, không được tin vào bói quẻ phù chú, lên đồng lên bóng, chiêm tinh chiêu hồn, phải hoàn toàn tin tưởng vào Thiên Chúa. Bù lại, Thiên Chúa sẽ cho xuất hiện giữa dân Người một tiên tri như Môsê. Bài sách Đnl còn nói về Đấng Thiên Sai Cứu Thế sẽ đến, Người sẽ là vị tiên tri trổi vượt trên hết mọi tiên tri. Đó chính là Chúa Giêsu sẽ khiến người ta kinh ngạc về cách giảng dạy và đầy quyền năng như câu chuyện kể của Phúc âm Chúa nhật hôm nay.
Chúa Giêsu vào hội đường Do thái ngày Sabat. Vì là thành phần của dân giao ước nên mọi người trong hội đường đều có quyền đọc và bình giảng một đoạn sách Thánh nào đó. Chúa Giêsu đọc sách và giảng dạy dân chúng. Thánh Marcô không cho biết Chúa đọc đoạn sách nào, cũng không nhắc đến nội dung giảng dạy hôm ấy. Marcô chỉ kể “Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một Đấng có uy quyền, chứ không như các kinh sư”. Thiên hạ ngạc nhiên trước một kinh sư trẻ tuổi, phong thái giảng dạy như một Đấng có uy quyền khác với các kinh sư luật sĩ. Thiên hạ còn kinh ngạc về giáo lý của Người. Giáo lý vừa đi vào nội tâm, vừa có một nội dung ưu việt hơn những bài học luân lý Cựu ước. Họ sửng sốt kinh ngạc là phải, bởi lẽ Chúa Giêsu không giải thích truyền thống của cha ông nhưng là giáo huấn của Chúa Cha. Người không công bố lề luật nhưng công bố Nước Thiên Chúa đã đến gần. Người xuất hiện như Đấng mang lấy thẩm quyền của chính Thiên Chúa tối cao.
Chúa Giêsu không chỉ dừng lại ở việc giảng dạy, Người còn thiết lập Nước Thiên Chúa bằng hành động thực hiện nội dung lời rao giảng. Trong hội đường hôm ấy có một người bị thần ô uế ám. Thấy Chúa Giêsu, Satan run sợ. Đối diện với Đấng quyền năng, Satan sợ hải “Ông đến để tiêu diệt chúng tôi chăng”. Nó tuyên xưng “Tôi biết ông là ai. Ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa”. Chúa bắt nó phải im ngay và Người dùng quyền năng trục xuất nó ra khỏi nạn nhân. Satan bị án phạt đời đời vì tội kiêu căng, tội gieo nọc độc cho Nguyên Tổ trong vườn địa đàng. Thiên Chúa không cho Satan có quyền hành gì trên con người, trừ khi con người tự nguyện trở thành nô lệ.
Chúa Giêsu là Đấng đầy uy quyền trong lời nói và nhiều hiệu năng trong hành động. Người đã giải thoát nhân loại khỏi ách thống trị của sự dữ. Con người được giải thoát khỏi ách nô lệ của bản năng và của sự ác để sống trong tự do của con cái Thiên Chúa. Đấng Thánh của Thiên Chúa, Đấng trong sạch vẹn tuyền đã đẩy lui và tiêu diệt sức mạnh Satan.
Ma quỉ là một quyền lực cụ thể đang hoành hành trên thế giới. Người ta có thể gọi tên quyền lực này là Belzebuth, Lucifer, Belial, là con rắn xưa, là tên dối trá, tên cám dỗ… Tất cả đều chỉ thực tại duy nhất muốn phá vỡ kế hoạch Thiên Chúa và đưa con người vào nô lệ. Nhìn vào thế giới hôm nay, chúng ta thấy biết bao hình thái nô lệ, biết bao xiềng xích của ác thần đang trói buộc con người. Điều kinh khủng là người ta không nhận ra mình đang bị nô lệ. Nô lệ cho quyền lực như Hitler, Pônpôt... Nô lệ cho tình dục, nô lệ cho ma túy, nô lệ cho cờ bạc rượu chè. Nô lệ cho mọi thứ chủ nghĩa cực đoan, mọi thứ cuồng tín tôn giáo. Nô lệ là thứ tự do giả hiệu mà ma quỷ luôn quảng cáo và muốn mời mọc con người. Ma quỷ thường được vẽ như con vật xấu xí đáng sợ, nếu thế thì con người dễ nhận ra nó và nó khó cám dỗ được. Nhưng thực tế, ma quỉ mang dáng dấp xinh đẹp hấp dẫn. Nó tấn công bằng những thủ đoạn tinh tế ngọt ngào. Nó nắm rõ yếu điểm từng cá nhân từng tập thể để tấn công và mong hạ gục. Ngày nay nhiều người không còn tin vào sự hiện hữu của ma quỉ, đó là thành công lớn của ma quỉ.
Sứ mạng của Chúa Giêsu là giải thoát con người khỏi mọi hình thức vong thân và tha hóa. Cuộc đời Kitô hữu là một cuộc chiến chống lại cám dỗ và loại trừ sự dữ. Sống theo Chúa Giêsu, con người sẽ không bao giờ nô lệ cho bản năng và ma quỉ.
Mỗi ngày, chúng ta vẫn thành tâm nguyện xin: Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng xin cứu chúng con khỏi sự dữ. Amen.
LO LẮNG QÚA LÀ THIẾU LÒNG TIN
Tôi nhai và nuốt Lời Chúa: Đừng lo lắng cho mạng sống, lấy gì mà ăn; cũng đừng lo cho thân thể, lấy gì mà mặc… (Mt 6, 25)
* Chuyện kể: Anh kia có tật lo lắng thái quá, ngày nọ cưới vợ, anh mừng nhưng lo, không biết vợ có thai được chăng?
Năm sau vợ anh mang thai, anh lại lo hơn, không biết vợ có sinh được không? Lai một phen mất ăn mất ngủ. Rủi thay, vợ anh chuyện bụng lúc mới 8 tháng, đứa bé sinh non, cân nặng 1 ký 9. Anh lo lắng quá, sợ không nuôi được đứa bé. Gặp ai anh cũng hỏi: “Sinh thiếu tháng như thế, liệu có nuôi được không?” Và dù ai cũng trấn an; nhưng anh chẳng an tâm chút nào. Tình cờ anh gặp người bạn cũ, anh đem chuyện ra hỏi. Người bạn tính hay lo, vừa an ủi vừa dẫn chứng: “Có gì đâu mà lo với lắng! Bà nội tôi sinh ra cha tôi cũng sinh non, mới hơn bảy tháng đã sinh rồi!”
Anh chàng lo lắng kia vội hỏi dồn một cách nghiêm trọng: “Thế à ! Rồi có nuôi được đứa nhỏ không?” !!!
* Một phút suy tư: Nhiều người lo lắng quá, làm đời sống chỉ là một chuỗi ngày dài mất niềm vui. Một câu nói thật chí lý đáng chúng ta suy nghĩ: “Lo lắng là tiền lời trả trước khi nó đến hạn.”
Thực chất sự lo lắng chẳng mang lại ích lợi gì. Người ta nghiên cứu: có đến qúa nửa những điều chúng ta lo lắng đã không trở thành sự thật. Chúa Giêsu đã dạy: Hỏi có ai trong anh em có thể nhờ lo lắng mà kéo dài đời mình được một gang không? (Mt 6, 27). Sự lo lắng quá làm lu mờ lòng tin cậy, nó khuyến bạn chăm chú vào những rắc rối mà quên mất lời hứa của Chúa. Sự lo lắng làm suy giảm niềm tin, cướp mất của chúng ta những kinh nghiệm quí báu, mà chỉ có đời sống bằng đức tin mới có thể đem lại sự bình an thật sự. Trong sa mạc, dân It-ra-en đã quên sự săn sóc của Chúa, quá lo lắng về thức ăn, nước uống…nên khổ đủ thứ. ( x. Dân số 11, 12, 13 và 14)
Hãy xem sự cuối cùng của những người quá lo lắng và mất niềm tin, sinh ra lằm bằm và phản loạn, họ phải nằm trong đồng vắng!
* Lời Chúa tôi ghi nhớ: Mọi lo âu, hãy trút cả cho Người, vì Người chăm sóc anh em. (x.1 Phêrô 5, 7 và Mt 6, 34)
Phó tế: JB Nguyễn Định * johndvn@yahoo.com
5. Hai tuần chủ yếu của Vatican II
Các nghị phụ công đồng tập trung tại Rôma để tham dự giai đoạn hai vào cuối tháng 9 năm 1963. Thánh lễ khai mạc được cử hành tại vương cung thánh đường Thánh Phêrô ngày 29. Chủ tế là đức tân giáo hoàng Phaolô VI. Vị tiền nhiệm của ngài, đức Gioan XXIII, người triệu tập công đồng, đã qua đời năm đó.
Ðức Phaolô VI, người lúc còn là Hồng y Montini, vốn là một khuôn mạo quan trọng trong khóa thứ nhất của công đồng, trong bài diễn văn, rõ ràng tự xếp mình đi theo chính sách aggiornamento (cập nhật hóa) của đức Gioan XXIII.
Ngày làm việc đầu tiên là ngày 30 tháng 9. Chúng tôi ngồi chỗ mới trong aula, nhận được bản đề án mới về Giáo hội, và bỏ phiếu ủng hộ đề án này với 2231 phiếu thuận trong tổng số 2301 phiếu bầu. Ðiều này cho thấy đã có sửa đổi quan trọng so với bản văn đầu.
Khi tranh luận về “Mầu nhiệm Giáo hội”, các can thiệp đã nhấn mạnh nhiều đến những hình ảnh thánh kinh như dân Chúa, nước Chúa, nuớc đức Kitô, thân mình đức Kitô, gia đình Thiên Chúa, hiền thê đức Kitô. Ðiều này cho thấy một sự chuyển mình ra khỏi nền thần học dựa trên phương thức triết học và cơ cấu; cũng là một chuyển mình ra khỏi thái độ thủ thế (hay hộ giáo) từng là hậu quả của những đối nghịch Thệ phản. Trong bản văn cuối cùng, được chấp thuận về Giáo hội, “Dân Chúa” trở thành một chương riêng tiếp theo chương “Mầu nhiệm Giáo hội”.
Trước khi kết thúc phiên họp ngày Thứ Sáu, cuộc tranh luận bắt đầu về phẩm trật, đặc biệt nhắc đến tính hiệp đoàn (collegiality) của các giám mục. Cuộc tranh luận này kéo dài 7 ngày.
Tính hiệp đoàn của các giám mục chẳng có chi liên quan đến trường này trường nọ hay đại học này đại học nọ. Mà vấn đề là: phải chăng các giám mục Công giáo tạo thành một cơ chế hiệp đoàn (corporate body) với đức giáo hoàng trong thừa tác vụ tông đồ? Các giám mục nhận được thẩm quyền của mình từ đức giáo hoàng hay trực tiếp từ đức Kitô như một cơ chế hiệp nhất và bên dưới đức giáo hoàng?
Ðây là vấn đề rất lớn đối với các thần học gia aggiornamento. Các nhà bảo thủ sợ rằng tính hiệp đoàn sẽ làm yếu đi quyền tối thượng (primacy) của đức giáo hoàng. Các nhà cấp tiến trái lại xác tín rằng việc lãnh đạo trong Giáo hội sẽ yếu đi vì thiếu sự hợp tác chặt chẽ giữa các giám mục và đức giáo hoàng trong việc quản trị Giáo hội.
Vào ngày Thứ Sáu là ngày bắt đầu cuộc tranh luận, một trong những vị bảo thủ tên tuổi là đức Hồng y Rufini của Palermi miền Sicily, mở đầu cuộc tranh luận bằng cách mạnh mẽ bênh vực quyền tối thượng không điều kiện. Sáng Thứ Hai, 9 đức hồng y, phần nhiều là người Bên Kia Núi (là tên chỉ các nghị phụ không phải người Ý), lên tiếng ủng hộ tính hiệp đoàn.
Tuần đó kết thúc với một đóng góp Ý rất mạnh khác, lần này lại từ cánh cấp tiến. Diễn giả là một vị rất trẻ, vừa mới được thụ phong 5 ngày trước đó, chính là giám mục phụ tá địa phận Bologna, đức cha Bettazzi. Quét một loạt Latinh trôi chẩy như thác nước và với những cử điệu tuyệt vời, trong 15 phút vắn vỏi có tác dụng điện hóa cả một hội trường đang mệt mỏi vào ngày cuối tuần, đức cha Bettazzi đã tuôn ra một loạt những chứng tá thần học hùng hồn để chứng minh rằng truyền thống Ý đại lợi thực ra cũng đứng đàng sau tính hiệp đoàn giống như mọi truyền thống khác.
Chỉ 15 phút thôi: nhưng cũng đã quá năm phút do qui luật cho phép. Ðáng bình luận là việc đức hồng y Lercaro của Bologna, người chủ toạ phiên họp hôm đó, say mê theo dõi lời trình bầy của vị phụ tá của mình đến độ quên khuấy cả việc mình phải trung lập và phải rung chuông cảnh cáo sau phút thứ 8, như qui luật đòi hỏi. Vị diễn giả khác trong ngày cũng được phép nói thêm giờ: đó là đức tổng giám mục Slipyi, người vừa được thả khỏi nhà tù Siberia sau 18 năm đằng đẵng.
Thế là hai tuần lễ quan trọng nhất của công đồng Vatican II đã kết thúc, hai tuần lễ bàn về bản chất Giáo hội, và vấn đề quyền tối thượng và tính hiệp đoàn.
Trong bản văn được thỏa thuận và công bố về Giáo hội, được biết dưới tựa đề Latinh là Lumen Gentium, tương quan giữa quyền tối thượng và tính hiệp đoàn được phát biểu như sau: “Giám mục Rôma, vì chức vụ Thay mặt đức Kitô và trong tư cách là mục tử của toàn thể Giáo hội, có quyền trọn vẹn, tối cao và phổ quát trên toàn thể Giáo hội, một quyền mà ngài có thể tự do thi hành. Chức bậc các giám mục là người kế quyền tông đồ đoàn (college of the apostles) trong vai trò của mình như thầy dậy và mục tử, và trong chức bậc ấy tông đồ đoàn được truyền đến muôn đời. Cùng với người đứng đầu là Ðức Giáo hoàng, và không bao giờ tách rời ngài, chức bậc các giám mục là chủ thể của quyền bính tối cao và trọn vẹn trên toàn thể Giáo hội hoàn cầu, nhưng quyền này không thể thi hành nếu không có sự đồng thuận của Giám mục Rôma”. Nếu độc giả thấy khó mà hiểu được mối tương quan giữa quyền tối thượng của đức giáo hoàng và tính hiệp đoàn, thì họ phải hiểu rằng phải khó khăn bao nhiêu mới đạt được nó trong một cuộc thảo luận có sự can dự của hơn 2000 tham dự viên!
6. Giáo dân, các phó tế và Ðức Mẹ
Ðiểm yếu lớn trong chương bàn về phẩm trật là song song với 10 tiết (sections) nói về các giám mục, chỉ có một tiết bàn về các linh mục và các giám mục.
Bốn người chúng tôi (một thiểu số quá nhỏ) cảm thấy điều đó quá tệ nên đã lên tiếng can thiệp vào chủ đề chức linh mục. Tôi nhấn mạnh rằng các giám mục sẽ tạo nên một khuôn mạo nghèo nàn nếu không có các linh mục, là những người làm phần lớn công việc. Một vị giám mục Pháp đề nghị rằng cũng như các giám mục đã tạo thành một hiệp đoàn chung quanh đức giáo hoàng thế nào, thì các linh mục cũng tạo nên một linh mục đoàn chung quanh vị giám mục như vậy.
Nhiều xem sét đã được dành cho các phó tế vì việc phục hồi chức phó tế trong Giáo hội Phương Tây được coi là một canh tân.
Nhưng vẫn có những luận chứng ủng hộ và chống lại. Một trong những khía cạnh tranh cãi là vấn đề độc thân. Có ý kiến cho rằng sẽ không thực tế tí nào nếu phục hồi chức phó tế vĩnh viễn mà lại loại trừ những người có gia đình. Ý kiến khác lại sợ rằng các phó tế có gia đình sẽ trở thành lưỡi dao sắc phá hoại luật độc thân của linh mục. Chính trong hoàn cảnh đó, Vatican II đã mở đường cho các phó tế vĩnh viễn có gia đình.
Chương kế tiếp trong đề án về Giáo hội cần phải đem ra thảo luận là chương ba: “Dân Chúa và Giáo dân nói riêng”.
Khi miêu tả việc bắt đầu cuộc tranh luận này, có lần tôi đã sử dụng hình ảnh chơi cricket: “Ðức hồng y Rufini (tổng giám mục bảo thủ của Palermo) đóng vai batsman khởi đầu cuộc chơi và, với con mắt tinh nhìn và tính cẩn thận cố hữu của một tay batsman sinh ra đã biết cầm bat để khởi đầu cuộc chơi, ngài xử lý một cách cứng rắn với bất cứ nghiêng ngả nào ngài nhận ra trong ngôn từ thần học và trong các trích dịch thánh kinh”. Một hồng y người Sicily đứng trước wicket!
Ðối với giáo dân, nhiều bài phát biểu rất hay đã được đọc về sự cần thiết phải nhấn mạnh nhiều hơn đến gia đình Kitô hữu, đến ơn gọi của người giáo dân phải sống và làm việc trong thế gian, đến việc thánh hiến thế gian qua người giáo dân Kitô giáo.
Nhưng có vấn đề: làm sao suy tư về người giáo dân mà lại không dùng đến những điều tiêu cực. Thật khó có thể định nghĩa được người giáo dân mà không nói họ không phải là giáo sĩ hay tận hiến tu dòng.
Một vài gợi ý được đưa ra nhưng hết 9 trong 10 trường hợp, kẻ định nghĩa giáo dân là gì vẫn cứ loay hoay mãi ở cuối đường hầm những cái tích cực, cho đến phút chót lại rơi vào cái bẫy tiêu cực, khiến cử tọa chẳng nhịn được cười.
Có người nhắc đến vai trò ngôn sứ của giáo dân cũng như chức linh mục của họ. Một vài châm chọc đã được phát biểu về điểm thứ hai, có thể vì cái viễn tượng người giáo dân xâm lăng gian cung thánh (chen chúc nhau đàng sau các phó tế có vợ). Tuy thế, cung điệu cuộc tranh luận nói chung khá tích cực, diễn tả được niềm hy vọng, tín thác và vững tin. Một số giám mục phát biểu hùng hồn về vai trò của phụ nữ trong Giáo hội. Ðức cha Hakin, mà giáo phận bao gồm Nazareth, gây ấn tượng khá đặc biệt trong vấn đề này.
Vấn đề về Ðức Mẹ được nêu lên - liệu Người nên có một đề án riêng, hay chỉ là một tuyên ngôn bên trong đề án về Giáo hội.
Tuần lễ thứ năm của khóa thứ hai là một tuần lễ làm việc rất ngắn. Một ngày được dành cho việc tưởng niệm đức cố Giáo hoàng Gioan XXIII,. đấng đã khởi xướng công đồng, và một ngày nghỉ lễ Các Thánh.
Tuy nhiên cũng kiếm ra giờ để tranh luận về chương 4 của đề án, “Ơn Gọi Nên Thánh trong Giáo hội”. Văn kiện nhấn mạnh rằng mọi phần tử của Giáo hội đều được kêu gọi nên thánh. Chương này bao gồm phần nói đến các tu sĩ, nhưng sau này, một chương riêng đã được tạo ra dành riêng cho đời sống tu sĩ.
Vấn đề vị thế của Ðức Mẹ trong các tài liệu của công đồng đã được bàn thảo một cách gay gắt. Những vị muốn có một đề án riêng biệt dành cho Ðức Mẹ cảm thấy nếu chỉ nói đến Người trong đề án về Giáo hội, ta sẽ xúc phạm đến danh dự mà Người đáng được hưởng. Phe kia thì xác tín rằng đức Maria chẳng muốn điều gì khác hơn là được liên kết chặt chẽ với Giáo hội. Khi bỏ phiếu, số phiếu bầu được công bố như sau 1114 vị ủng hộ và 1074 vị bỏ phiếu chống, một chênh lệch chưa đến 2 phần trăm.
Cuộc tranh luận về đề án liên quan đến Giáo hội kết thúc với 5 câu hỏi được đặt ra cho các nghị phụ để thăm dò thái độ của các ngài đối với các vấn đề quyền tối thượng, tính hiệp đoàn và chức phó tế.
7. Hai vụ phun lửa tại Vatican II
Tuần lễ thứ sáu và thứ bẩy năm 1963 của Công đồng Vatican II được dành cho một đề tài khác “Các giám mục và việc cai quản các giáo phận”. Như thế lại có dịp bàn về các giám mục.
Các điểm đưa ra thảo luận là mối liên hệ giữa các giám mục và giáo triều Rôma, với các chi tiết liên quan đến giáo phận, các giám mục phó và phụ tá, và vấn đề người thuộc các nghi lễ khác nhau trong Giáo hội nhưng sống trong cùng một lãnh thổ.
Tại Nam Phi, ngoài nghi lễ Rôma và, một mức độ nào đó, nghi lễ Maronite của phần đông anh em Libăng, chúng ta ít biết đến các nghi lễ khác.
Tại Trung Ðông, trái lại, ta thấy rất nhiều nghi lễ khác nhau mà một số tràn qua cả các nước khác, như Canada và Mỹ. Mối liên hệ giữa các nghi lễ này cần được ấn định rõ.
Hiển nhiên các nghị phụ thuộc các nghi lễ trên có những quan tâm khác nhau, nhưng họ chỉ là thiểu số rất nhỏ. Như thế, khóa hai của Công đồng xem ra đang tiến một cách chậm chạp nhưng đều đặn tới chỗ tàn lụi. Ðiều này rồi cũng đến thôi, nhưng trước khi tàn lụi, nó cũng phun lửa lên hai bận: một nhỏ, một lớn.
Vụ phun lửa nhỏ liên quan đến lời chỉ trích của Thượng phụ Saigh Maximos IV, thuộc nghi lễ Melkite. Vị Thượng phụ này không bao giờ nói tiếng Latinh để phản đối sự độc quyền của ngôn ngữ này. Thay vào đó, ngài nói bằng tiếng Pháp. Ngài hùng hồn chỉ trích Hồng y đoàn, bằng cách cho mọi người hay: theo lịch sử đó chỉ là một tổ chức của các giáo sĩ Rôma. Sinh ra từ cái nôi ‘tội nguyên tổ” ấy, nó không thể đại diện đầy đủ cho Giáo hội hoàn vũ được.
Tốt hơn, theo đề nghị của ngài, nên tổ chức một hội đồng bao gồm các thượng phụ, một ít hồng y vốn là giám mục chính tòa, và cả chủ tịch các hội đồng giám mục nữa. Ngài kết luận, một tổ chức như thế mới có thể đóng góp đáng kể vào việc phổ quát hóa Giáo hội và cổ võ việc thích nghi vào các hoàn cảnh và văn hóa khác nhau.
Vụ phun lửa lớn hơn xẩy ra vào cuối tuần lễ thứ sáu. Sáng Thứ Sáu hôm đó, khi bước vào Nhà thờ Thánh Phêrô, tôi thấy mình đi bên cạnh nhà thần học Dòng Tên người Mỹ nổi tiếng là John Courtney Murray. Ông cho hay tinh thần của Công Ðồng xem ra đang xìu xuống (drooping) trông thấy. Tôi muốn đồng ý với ông.
Tuy nhiên, trong phiên họp buổi sáng, đức Hồng y Joseph Frings của Cologne nắm lấy máy vi-âm và bắt đầu lên tiếng bằng một giọng trầm và rất đặc trưng của người Giéc-manh (teutonic). Bỗng nhiên, các thành viên Công đồng nhận ra ngài đang chỉ trích Bộ Tín lý (Holy Office), là Bộ có nhiệm vụ bảo vệ sự chính thống của tín lý (ngày nay gọi là Bộ Giáo lý Ðức tin). Hội trường bỗng trở nên căng thẳng chăm chú. Các thần học gia aggiornamento, tức cánh cấp tiến, không tin nổi tai mình. Bộ Tín lý từng cứng rắn với khá nhiều thành viên cánh này, trong số đó có John Courtney Murray.
Khoảng 20 phút sau, đến lượt đức hồng y Ottaviani lên tiếng. Ngài là bộ trưởng bảo thủ của Bộ này, viên chức cao nhất sau đức Thánh cha. Ðức hồng y Ottaviani bước xuống phía máy vi âm với cái nhìn hết sức quả quyết trên gương mặt. Khi đến lúc lên tiếng, lời phản kháng say mê thoát ra từ môi miệng ngài và vang vang khắp cả hội trường đang im phăng phắc. Mặc dù rất ít người trong hội trường ủng hộ ngài, nhưng bản năng thể thao (sporting instinct) của các nghị phụ bỗng nổi lên và bộc phát thành tiếng vỗ tay hoan hô vang dội.
Vỗ tay là điều bị cấm, nhưng thỉnh thoảng vẫn nổ ra. Lần này, tiếng vỗ tay không phải vì nội dung, mà vì phong cách. Nó khiến tôi nhớ đến bài thơ của Macauley mà chúng ta thường học ở nhà trường nói về việc Horatius đã giữ cây cầu như thế nào chống lại quân xâm lăng Tuscan khiến “Ngay cả hàng quân Tuscany cũng không thể không hoan hô”. Dịp này đây, cánh cấp tiến quả là những anh chàng Tuscan kia.
Suốt khóa hai này của Công đồng, các chương của đề án đã sửa đổi về phụng vụ - viên đá chủ chốt của Vatican II - được đem ra đầu phiếu. Lá phiếu hoặc placet (đồng ý), hoặc non placet (không đồng ý), hay placet juxta modum (đồng ý có điều kiện). Ai muốn bầu kiểu thứ ba, thì phải giải thích lý do, để lý do ấy được xem sét lúc soạn thảo bản văn cuối cùng.
Hiến chế về phụng vụ diễn tiến tốt và đã đạt được số phiếu áp đảo và không sửa đổi vào ngày 4 tháng 12 năm 1963. Tất cả chúng tôi đều tuân hành đặt bút ký tên vào hiến chế này, một hiến chế thay đổi cách chúng ta cử hành thánh lễ trước Vatican II qua cách chúng ta cử hành thánh lễ ngày nay.
Nhân nói về phương pháp đầu phiếu, có một vị giáo phẩm già hay ngủ gục trong các phiên họp. Mỗi buổi sáng, chúng tôi phải ghi thẻ hiện diện, mà tiếng Latinh gọi là thẻ adsum (tôi có mặt). Có người kể lại rằng vị giáo phẩm thân yêu của chúng ta ghi thẻ ấy như sau: adsum juxta modum (hiện diện có điều kiện) !
8. Các Niềm Tin Khác: Ðại Kết
Ðại kết là cổ võ sự hiệp nhất Kitô giáo, đem mọi thành phần đã chia cách và phân tán trong Giáo hội của đức Kitô về một mối.
Về phía Công giáo, vấn đề chính đối với đại kết là duy trì đức tin trong một Giáo hội đích thực của đức Kitô trong khi tỏ đủ lòng tôn trọng và quan tâm nhậy cảm đối với các giáo phái khác nhằm khuyến khích và cổ võ đối thoại tiến tới tái hiệp nhất.
Xét một cách rộng, hiện có hai dạng thức giáo hội ly khai hay như người ta thường nói, có hai “cộng đồng giáo hội” ly khai: một ở vùng Ðông Ðịa Trung Hải và Ðông Âu Châu, và một thoát thai từ Tây Âu Châu. Các Giáo hội Phương Ðông bao gồm những người đã phân cách từ rất lâu, tận thế kỷ thứ năm, vì những lạc thuyết liên quan đến đức Kitô lúc đó, và những người được mệnh danh là Chính Thống Giáo, là những người phân cách với Giáo hội Công giáo trong thời Trung Cổ vì ly giáo. Các giáo hội và cộng đồng giáo hội ly khai Tây Âu Châu gồm những người phân cách khỏi Rôma qua Phong Trào Cải Cách.
Tại Công đồng Vatican II, thảo luận đến các vấn đề liên quan đến những vụ ly khai này cũng như thiết lập ra các nguyên tắc cổ võ việc cầu nguyện, đối thoại và hợp tác không phải là việc khó. Nhưng cái tạo ra vấn đề thực sự chính là việc ghép vào đề án đại kết chương nói về Do Thái giáo và chương nói về tự do tôn giáo. Cuối cùng, hai chương này đã được bỏ ra ngoài đề án để được bàn đến ở nơi khác một cách đặc biệt.
Về vấn đề Do-thái, các luận bác chính được nêu lên là: tại sao lại xử lý đặc biệt về nó trong khi không nói gì đến các thành phần tôn giáo khác như Hồi giáo, Ấn giáo, Phật giáo vân vân; tại sao lại quan tâm cách thiện cảm đối với người Do-thái trong bầu khí thù nghịch hiện đang đặc trưng cho tình hình tại Trung Ðông (người Ả-rập hết sức thù ghét bất cứ sự chú tâm đặc biệt nào dành cho người Do-thái); và tất nhiên, còn vì hàng bao thế kỷ người Kitô giáo đối xử tàn tệ với người Do-thái chỉ vì họ phải chịu trách nhiệm về cái chết của đức Kitô.
Vấn đề đối với tự do tôn giáo chủ yếu cũng là một vấn đề có tính lịch sử, phát sinh từ sự kiện này là trong cuộc phát triển của Tây Âu Châu, đức tin Công giáo đã trở nên đồng hóa, theo một nghĩa nào đó, với các định chế chính trị và xã hội Âu Châu, đến độ bất cứ giáo huấn lạc giáo nào chống lại niềm tin Công giáo cũng được kể là phản bội chống lại quyền lực chính trị.
Từ bối cảnh ấy, người ta xác tín rằng quyền lực chính trị có bổn phận duy trì, bảo vệ và cổ võ đức tin Công giáo. Ðến một mức nào đó, xác tín trên vẫn còn lẩn khuất đâu đó trong tâm trí các người đại diện của các nước như Tây Ban Nha và Ý Ðại Lợi là những nước không cảm nghiệm được Phong trào Cải Cách, cũng như sự lớn mạnh của các cộng đồng giáo hội ly khai ngay trên đất nước họ.
Chính vì thế cuộc tranh luận mở ra cho các vấn đề phức tạp ấy không tránh khỏi gây nên bối rối và nóng bỏng cho đến khi phải đưa ra quyết định loại bỏ các chương về chúng, và bàn đến chúng trong những đề án khác.
Chương nói về Do thái giáo sau này được đề cập tới trong Tuyên Ngôn về Liên Hệ của Giáo hội với các Tôn giáo Không phải Kitô giáo, và chương về tự do tôn giáo được đề cập đến trong một tuyên ngôn riêng.
Khi các vấn đề trên đã được giải quyết, Công đồng tiếp tục hoàn tất cuộc tranh luận về vai trò của Ðức Nữ Trinh trong Giáo hội.
Hai tước hiệu được đem ra tranh luận là Ðấng Trung gian Mọi Ơn Thánh và Mẹ Giáo hội. Vì có quá nhiều chống đối đối với việc trung gian phổ quát của Ðức Mẹ, nên tước hiệu đầu không được chấp thuận, còn tước hiệu Mẹ Giáo hội cũng gặp nhiều rối rắm vì đức Maria vừa là thành viên vừa là mẹ Giáo hội.
Một vị giám mục Mễ Tây Cơ nói khôi hài rằng nếu đức Maria được gọi là Mẹ Giáo hội và nếu chúng ta là con cái Giáo hội, thì hóa ra Người là Bà chúng ta rồi. Hôm sau ngài bị một vị giám mục Tây Ban Nha lên lớp gay gắt.
Thay vì gọi đức Maria là Mẹ Giáo hội, Công đồng chỉ nhắc đến Người như là Mẫu mực của Giáo hội. Việc ngập ngừng này sau đó đã đức Phaolô VI vượt qua. Ngài không cảm thấy lúng túng tí nào về tước hiệu Mẹ Giáo hội hết, và đã chuẩn y một thánh lễ tuyệt vời kính đức Maria dưới tước hiệu ấy.
Như thế, khóa ba của Công đồng cứ từ từ diễn tiến, không tỏ dấu hiệu gì cho thấy cuối khóa đó là công đồng chấm dứt.
Tuy nhiên, một dấu hiệu khẩn trương mới đã lộ ra trông thấy trong cung cách các hồng y chủ toạ kiểm soát các buổi tranh luận. Tổng giám mục Munich, tức đức hồng y Doepfner, đặc biệt tỏ ra kịch liệt khẩn trương đến độ một số nghị phụ gọi ngài là “Ðức Kịch Liệt” (His Vehemence).
(còn tiếp)
![]() |
| Christopher Hitchens và Dinesh D'Souza |
Ông D’Souza, một người Công giáo và tác giả cuốn “What’s So Great about Christianity” (Những điều Cao cả biết bao nơi Thiên Chúa giáo) lý luận rằng đạo Thiên Chúa là nền tảng của nhiều giá trị chung, chẳng hạn như yêu cầu tìm hiểu khoa học, và sự tôn trọng cá nhân. Thêm vào đó, ông khẳng định rằng Thiên Chúa giáo đề ra câu trả lời tốt đẹp nhất để tạo ra cây cầu nối liền khoảng cách biệt lớn lao giữa con người và Thiên Chúa.
Hitchens, một người vô thần nổi tiếng và là tác giả cuốn sách “God is not Great” (Chúa không Cao cả”) lý luận rằng ảnh hưởng của tôn giáo phần lớn là điều xấu cho xã hội. Ông nói rằng mặt khác tôn giáo làm cho con người tốt làm những chuyện xấu, ngăn chặn trước tư tưởng con người, và giới hạn trách nhiệm của con người.
Cuộc tranh luận được điều hợp do ông Dan Caplis, người chủ trì những cuộc thính đàm thuộc đài phát thanh Denver, và được bảo trợ do Trung tâm Nghiên cứu Tư tưởng Công giáo Thánh Tôma Aquina, là một chương trình nhằm hướng tới giới trí thức của Giáo xứ Thánh Tôma Aquina tại Boulder, bang Colorado. Cuộc tranh biện tập chú vào đề tài “What’s so Great about God? – Atheism vs. Religion.” (Có điều gì Cao cả đến thế về Thiên Chúa chăng? - Chủ nghĩa Vô thần chống với Tôn giáo.”
Linh mục chánh xứ Giáo xứ Thánh Tôma Aquina là Kevin Augustyn khai mạc cuộc tranh luận, nói rằng: “Là người Công giáo, chúng ta không sợ những cuộc tranh biện có tính cách trí thức. Đức tin và lý trí không đối kháng nhau.”
Mở đầu luận cứ của mình, ông D’Souza nói rằng ông chỉ muốn tranh biện trên “căn bản lý trí” mà thôi. Ông liệt kê ra những điều ông tin tưởng là quan trọng cho tất cả mọi người, kể cả người vô thần: đó là mối quan tâm về tư tưởng của cá nhân, khoa học như một cơ chế tự trị, phẩm giá bình đẳng của phụ nữ, việc hủy bỏ chế độ nô lệ, và lòng từ tâm.
“Thiên Chúa giáo đã đưa vào thế giới này những giá trị đó”. Ông cho rằng chế độ nô lệ đã được bãi bỏ nơi các xã hội theo Thiên Chúa giáo trong khoảng từ thế kỷ 4 cho đến thế kỷ 10.
Ông nói: Khoa học hiện đại đã có “nền tảng đức tin” theo nghĩa bắt nguồn từ những giả định của Thiên Chúa giáo. Chúng ta cho rằng chúng ta sống trong một vũ trụ có luật pháp và duy lý, mà tính cách duy lý ngoại vi được phản ảnh trong chính tâm tưởng chúng ta, những giả định này được Thiên Chúa giáo nuôi dưỡng.
Ông nói: “Không phải tính cờ mà khoa học tân tiến đã phát triển trong nền văn hoá Tây phương.”
Sau đó, D’Souza biện luận rằng vũ trụ đã “được điều chỉnh tốt đẹp cho cuộc sống”. Hãy tưởng tượng rằng khi các bối cảnh vật lý của vũ trụ này có thể bị một cơ chế kiểm soát nào đó làm thay đổi đi, thì một sự đổi thay vô cùng nhỏ bé xảy ra cho một hằng số cũng sẽ đẩy vũ trụ có thể cư ngụ được vào tình huống bất khả.
Ông cũng giả thiết rằng, bất chấp những hạn chế tự nhiên, “ở một mức nào đó, con người được tự do không bị các luật pháp cố định chi phối.” Con người được đặt giữa hai lãnh vực rõ rệt: “đường lối chúng ta đang sống” và “đường lối chúng ta phải thể hiện.”
“Chúng ta làm đúng khi sống như có một Thiên Chúa hiện hữu, bởi vì chung cuộc điều đó làm cho chúng ta thành con người tốt hơn.”
Hitchens mở đầu những lời phê bình của ông bằng cách nửa đùa nửa thật nói rằng ông không cho tình nhân ái là có giá trị và quả có vui thích trước những nỗi bất hạnh của người khác.
Bắt đầu biện bác, ông chế diễu cái ý tưởng phổ biến cho rằng vắng bóng tôn giáo sẽ gây ra những sự xáo trộn về phương diện luân lý. Ông hỏi: Nếu người ta chứng minh được rằng Chúa Giêsu, bà Maria hay một nhân vật tôn giáo nào khác đều là những nhân vật “hoàn toàn chỉ có trong thần thoại”, thì quý vị có thực sự nhìn người lân cận bằng con mắt khác đi hay không? Hoặc thế là quý vị có trở thành một tên ăn trộm hay một kẻ chuyên đi hãm hiếp?”
Hitchens lý luận rằng: nếu chủ nghĩa vô thần là đúng, “chúng ta cũng đang ở đúng vị trí chúng ta đứng hiện nay” xét về phương diện những nghĩa vụ của chúng ta đối với người khác và lý do tại sao chúng ta đang ở vị trí tại nơi này.
Sau đó ông cho rằng: vì khư khư chủ trương đã xảy ra sự mặc khải từ Thiên Chúa, nên tôn giáo ngăn chặn những vấn nạn đó, cho là chỉ cần sống theo đúng những giới răn do tôn giáo đặt ra. Điều này làm cho trách nhiệm cá nhân trở thành vô nghĩa, và tấn công vào nhân loại nơi “chính tính chất trung thực sâu xa nhất” của chúng ta khi nói rằng chúng ta không có ý thức gì hết về điều thiện và điều ác.
Hitchins cho rằng đấy cũng là “nguồn gốc của chủ nghĩa độc tài toàn trị”.
Ông kết án vị Chúa mà người Kitô giáo tin theo, vị Chúa làm cho chúng ta đau yếu và truyền dậy chúng ta phải mạnh khỏe, cho rằng quan niệm về Chúa như thế là “rất kém cỏi, rất tội lỗi, hoặc rất độc ác.” Ông đặt câu hỏi là tại sao Chúa cứu chuộc nỗi khổ đau của con người chỉ bằng cách cất đi các tội lỗi, chứ không phải bằng cách đi vào nhà tù hoặc trở thành đau ốm thay cho họ.
D’Souza trả lời bằng cách lập luận rằng nếu không có Thiên Chúa giáo “chúng ta sẽ có một nền văn minh rất khác”, một bằng chứng là chỉ có những quốc gia phương Tây chịu ảnh hưởng bởi Thiên Chúa giáo là có vẻ vội vã chạy đến cứu trợ các nạn nhân thiên tai trên khắp thế giới. Ông trưng dẫn một câu tục ngữ Ấn độ được biết hồi còn trẻ nói rằng “nước mắt người lạ chỉ là nước lã.”
Sau đó Hitchens đặt những câu vấn nạn tại sao Thiên Chúa giáo phải được coi là cao quý hơn các tôn giáo khác, như Hồi giáo chẳng hạn.
D’Souza đáp lại bằng cách nêu lên sự đứt quãng giữa “cách thức sự việc đang hiện hữu” và “cách thức sự việc chúng phải là.” Điều này có thể được giải thích bằng cách giả thiết là có một khoảng ngăn cách giữa “cấp độ nhân loại” của cuộc sống và “cấp độ thần linh.” Theo quan điểm của D’Souza, Hồi giáo và Do thái giáo chủ trương rằng khoảng ngăn cách lớn lao này có thể được nhân loại làm cho gần lại bằng cách xây dựng một “cái thang” để trèo lên được tới Thiên Chúa.
Tuy nhiên, Thiên Chúa giáo nói rằng dự án đó là “tuyệt vời nhưng không thể thực hiện được” qua lời giảng huấn rằng khoảng ngăn cách này “phải được lấp kín từ phía bên kia” qua việc Thiên Chúa nhập thể vào thế giới trong con người của Đức Giêsu Kitô.
Hitchens trả lời bằng cách cố tâm so sánh sự ngang bằng giữa hai sự việc: Mohamet cho rằng ông ta là một tiên tri, còn người theo Thiên Chúa giáo thì cho rằng Đức Kitô là người Thiên Chúa sai đến. Sự so sánh này bị D’Souza phản bác lại, nói rằng Hitchens đã bỏ qua không xét đến vị trí của thiên tính Đức Kitô trong thần học Thiên Chúa giáo.
Các vấn đề khác được nêu ra trong cuộc tranh biện gồm có: sự hiện hữu của các luật tự nhiên, tính cách lịch sử của các sách Tin Mừng, tính khả tín của những chứng nhân Kitô giáo buổi sơ khai, và tính chất của giảng huấn Công giáo về nhu cầu phải có sự cứu độ của Đức Kitô và Giáo hội.
D’Souza cũng mô tả lần gặp gỡ đầu tiên với Hitchens sau khi ông này viết một bài bình luận đăng trên tạp chí thiên tả “The Nation” ủng hộ sự bảo vệ về luật pháp đối với trẻ chưa sinh.
Hitchens sau đó giải thích rằng ông thấy việc loại bỏ “trẻ trong dạ người mẹ” ra khỏi gia đình nhân loại là một điều cực kỳ đáng nên phản đối.
Sau cuộc tranh luận, thông tấn xã CNA có nói truyện với Cha Augustyn. Ngài cho biết đây là một cuộc “tranh luận xuất sắc” với cả hai diễn giả đã làm “rất tốt” vai trò của họ. Theo nhận xét của ngài thì D’Souza đã phản bác và “lột mặt nạ” một số những điều so sánh về các tôn giáo có tính cách “bất công” và “lựa lọc” của Hitchens.
“Đồng thời, Christopher Hitchens cũng là một đối thủ cừ khôi. Ông ta rất hóm hỉnh, rất sắc bén, đã đưa ra những luận điểm tốt và đem thính giả tham gia vào cuộc tranh biện. Tôi không nghĩ rằng các lời biện bác của ông ta là vững chãi, nhưng tôi thiết nghĩ ông ta là một người tranh luận giỏi.”
Trung tâm Thánh Tôma Aquina dự trù sẽ tổ chức các phiên họp theo dõi để thảo luận về cuộc tranh biện nói trên tại các lớp trong trường đại học vào những buổi tối ngày thứ Ba, Tư và Năm. Cha Augustyn cho biết đó là những buổi biện giải cho tôn giáo hoặc là những phiên họp có hỏi-đáp.”
Ngài cho biết rằng cuộc tranh luận nói trên đã được trực tiếp truyền đi tới một cơ sở khác có chứa khoảng 300 khán giả, đem tổng số người tham dự lên tới hơn 2300 người.
Cha Augustyn nói: “Đây là biến cố lớn lao nhất mà chúng tôi đã chủ trì trong lịch sử của trường”, đồng thời cha kêu gọi có thêm nhiều người tham gia trợ giúp sứ vụ phúc âm hóa trong môi trường đại học.
Tham dự buổi họp báo có Tổng giám mục Gianfranco Ravasi, chủ tịch Hội đồng Giáo hoàng về Văn hóa; Lm Dòng Tên Jose Gabriel Funes, giám đốc đài Thiên văn Vatican; Nicola Cabibbo, chủ tịch Học viện Giáo hoàng về Khoa học; và Paolo Rossi, giáo sư danh dự khoa học lịch sử trường Đại học Florence (Ý) và trường "Accademia dei Lincei" tại Roma.
Đức tổng giám mục Ravasi giải thích rằng Liên Hiệp quốc đã quyết định dành năm 2009 là “năm thiên văn học” nhằm để kỷ niệm 400 năm kể từ ngày có những phát kiến thiên văn học đầu tiên.” Ngài nói biến cố này sẽ đặt vinh dự vào Galileo.
Sau khi tuyên bố rằng “Giáo hội ước mong vinh danh nhân vật Galileo, thiên tài đổi mới và là người con của Giáo hội”, Đức Tổng giám mục giải thích rằng “thời gian đã chin mùi để có một cái nhìn mới mẻ về nhân vật Galileo và toàn bộ vụ Galileo.”
Về những hoạt động được dự trù năm nay, Tổng giám mục Ravasi loan báo rằng một nghị hội học thuật quốc tế sẽ được tổ chức tại Florence từ ngày 26 đến 30 tháng 5 về đề tài “Galileo Galilei: Một bài đọc mới có tính cách lịch sử, triết học và thần học.” Hội nghị này được tổ chức do Viện Stensen Institute of Florence của Dòng Tên và được cổ võ do Hội đồng Giáo hoàng về Văn hóa, Học viện Giáo hoàng về Khoa học và đài Thiên văn Vatican. Hội nghị sẽ có sự tham dự của các chuyên viên trên thế giới về chủ đề nói trên (các nhà thần học, sử gia và triết gia) như George Coyne, Evandro Agazzi, Nicola Cabibbo and Annibale Fantoli.
Từ ngày 15 tháng 10 năm 2009 đến 15 tháng giêng năm 2010, Viện Bảo tàng Vatican sẽ chủ trì một cuộc triển lãm chủ đề: “2009: Di sản lịch sử của thiên học học nước Ý từ Galileo đến nay”, dành cho những tài liệu lịch sử được lưu giữ tại các đài thiên văn nước Ý và Vatican. Cuộc triển lãm được tổ chức do Viện Quốc gia Vật lý học thiên thể nước Ý, cộng tác với Viện Bảo tàng Vatican và Đài Thiên văn Tòa thánh.
Tổng giám mục Ravsi cũng đề cập đến nghị hội quốc tế được tổ chức vào tháng 11 với đề tài: “1609-2009. Từ ngày sinh của khoa Vật lý học thiên thể đến vũ trụ học tiến hoá. Khoa học, triết học và thần học” được Học viện Giáo hoàng Lateran tại Roma tổ chức.
Văn khố Mật của Tòa thánh cũng dự trù xuất bản một ấn bản mới tất cả những tài liệu liên quan đến phiên tòa án xử Galileo, và sẽ được phát hành trước cuối năm nay.
Vị chủ tịch Hội đồng giáo hoàng về Văn hóa kết thúc bằng lời tuyên bố loan báo một dự án mới được Giáo hội Ý cổ võ qua trang mạng internet www.disf.org (Interdisciplinary Documentation of Science and Faith). Ngài nói: Nơi đây sẽ dành riêng cho năm thiên văn học, bằng cách mỗi tháng công bố các tài liệu, văn bản và các tư tưởng nhằm để hướng dẫn theo tinh thần Thiên Chúa giáo các cuộc tranh biện giữa khoa học và đức tin.”
Đức Thánh Cha hoan nghênh Bàn Thờ Hòa Bình
VATICAN, ngày 28 tháng 1, 2009 (Zenit.org).- Đức Thánh Cha Benedict XVI hoan nghênh sáng kiến của một hiệp hội Ba Lan là dựng lên một bàn thờ tại Đất Thánh và cung hiến đặc biệt cho việc cầu nguyện cho hòa bình.
Sau khi giảng bài giáo lý hàng tuần trong sảnh đường Thánh Phaolô hôm nay, Đức Thánh Cha nói chuyện với Cộng Đồng Nữ Vương Hòa Bình tại Ba Lan; ngài nói, “Nơi đây sẽ là điạ điểm để liên tục cầu nguyện cho hòa bình tại Đất Thánh và trên toàn thế giới."
Đức Thánh Cha cầu xin Thiên Chúa “hãy nghe lời nguyện này và đổ tràn trên trái tim của tất cả mọi dân nước niềm hòa bình của Người."
Nhật báo L'Osservatore Romano cho hay bàn thờ này đã được trình dâng lên Đức Thánh Cha sau buổi tiếp kiến, và ngài đã làm phép.
Sau một chuyến hành hương đến hai đền thánh của Đức Mẹ tại Ba Lan và Đức, bàn thờ này sẽ được đặt trong Nhà Nguyện Armenian nơi có Chặng Đường Thánh Giá thứ Tư tại Giêrusalem.
![]() |
| Các tu sĩ Aemenian rời nhà nguyện sau buổi doc kinh |
![]() |
| Nhà Nguyện Armenian |
![]() |
| Priests and patients at Cam Thuy Leprosarium |
![]() |
| The poor fishing village of Thanh Hoa |
On Jan 21, 2009, Fr. Joseph Nguyen Van Binh led the Cathedral Parish Choir to visit the patients at Cam Thuy Leprosarium, where they got straight to the business of cleaning and cheering up scores of patients with their fun filled stories. More than 100 portions of gifts were also distributed during this visit.
On Jan 24, 2009, Bishop Joseph Nguyen Chi Linh, accompanied by Fr. Joseph Vu Thanh Long who is in charge of Vocation in the diocese; Fr. Joseph Pham Van Que pastor of the Cathedral Parish, and other brothers and sisters of The Cross' Lovers paid a visit to residents in the fishing village South of Thanh Hoa city
This village by all accounts has been the most destitute region in the city. People here are registered as residents but they have never been exposed to the city light. Family members of up to two, three generations can be packed into a small boat. Most of them are illiterate and their only dream is to make daily ends meet. Years have passed by but better living condition still remains a distant dream for these down to earth, simple but poor fishermen. Things are especially hard this year when customers' demands seem to cut back sharply due to slumping economy.
These villagers are always on the top priority list of the Archdiocese when it comes to distributing aid, although the diocese's major goal is to provide them with a fishing rod, the best thing it can come up with now is only a few fish to keep people's stomach from being empty.
The delegate also made their way to visit disabled children at Gia Ha center and patients at Mental Institution in Quang Xuong.
Sister Ann Huong, from Gia Hoa- Sisters of the Cross' Lovers said the children at the center were so excited about their much loved visitors that they could not sleep the night before and had been ready to welcome the delegate since early morning.
To his disabled but beloved little friends, Bishop Joseph Nguyen delivered a heartfelt speech as follows:"Although you are considered disabled and less fortunate that regular children, but rest assured that you will be on the mind of other people. As of now the diocese has not been able to afford a place where we can provide proper assistance to meet your needs, but I promise you children, as soon as we're able to, we will build a place where all of you can gather and live your live under much better condition."
The bishop also encouraged the families of the disabled children to be resilient in loving and caring for their less fortunate loved ones.
At the Quang Xuong Mental Institute, Bishop Joseph Nguyen and his delegate visited each and every patients staying at the institution. They were warmly received by the physician director and his medical staff.

Duy Nguyễn, Justin Vũ, Duyên Phạm, Nguyệt Trịnh, Quang Nguyễn, Lm Phạm Hữu Trường (Carina), Lm Nguyễn Trung Cảnh (Browns Plains), Lm Vũđình Tường (cha xứ St Mark Inala), Lm Trần Anh Tú (Canberra), Lm Nguyễn Văn Vĩnh (Kingston - Marsden), Francis Hoàng.

Đoàn Thanh Niên của giáo xứ St Mark trước giờ Lễ Giao Thừa

Ca Đoàn Mân Côi của giáo xứ St Mark

Các em thiếu nhi và thanh niên dâng lễ vật

Của lễ dâng Chúa đầu năm có bánh chưng, bánh tét và trái cây

Duyên Phạm đọc lời chúc Tết cha xứ và mọi người trong cộng đoàn

Thanh niên, thanh nữ trao quà Tết cộng đoàn biếu các cha

Hái lộc đầu năm (Lời Chúa cuốn trong giấy)

Ban Ẩm Thực chuẩn bị thức ăn cho cộng đoàn sau Lễ Giao Thừa

Các em trong Đoàn Thanh Niên phục vụ tiếp nước uống trong buổi tiệc mừng Xuân Kỷ Sửu

Cha Nguyễn Trung Cảnh và thân nhân

Cha Trần Anh Tú và các em trong Đoàn Thanh Niên của giáo xứ St Mark
Xin bấm vào link nếu muốn xem thêm hình ảnh: http://www.stmarksinala.net.au/Photos.html
MÙNG HAI TẾT LỄ KÍNH NHỚ TỔ TIÊN ÔNG BÀ CHA MẸ
Từ sáng sớm trong tiết xuân đầm ấm ngày mùng hai tết Nguyên Đán Kỷ Sửu ( 27/1/2009 ), Cộng Đoàn Giáo Xứ Bắc Hải, Hạt Hố Nai, Giáo Phận Xuân Lộc, quy tụ về nghĩa trang của giáo xứ để hiệp dâng Thánh Lễ cầu nguyện cho Tổ Tiên Ông Bà Cha Mẹ những người ruột thịt thân yêu trong gia đình.
Về dự lễ, chúng tôi thấy có đông các Tu Sỹ nam nữ, quý ông bà anh chị em từ nhiều nơi trong Nước, có những người từ rất xa cách nửa vòng trái đất cũng về xum họp vui xuân và dự lễ kính nhớ đến những người đã khuất. Mở đầu Thánh Lễ, Cha Phó Đaminh Trần Mạnh Duyên chủ tế, Ngài Dâng lời kính chào quý Cha, Qúy Tu Sỹ nam nữ và Qúy Cụ, Qúy Ông bà anh chị em, Ngài ngỏ lời đầu lễ: “ Dân tộc Việt Nam chúng ta có truyền thống đạo đức rất đáng trân trọng, chữ Hiếu lúc nào cũng được đặt làm đầu, và vì thế, việc đền ơn báo hiếu Tổ Tiên Ông Bà Cha Mẹ mang một tầm vóc rất quan trọng trong đời sống cá nhân cũng như gia đình ….”
Bài giảng trong Thánh Lễ, Cha xứ Đaminh Bùi Văn Án, với cung giọng trầm bổng mạch lạc rõ ràng, đầm ấm đầy truyền cảm, Ngài chia sẻ với cộng đoàn.
Trọng kính quý Cha ! kính thưa quý Tu Sỹ ! kính thưa cộng đoàn phụng vụ !
Sáng hôm nay mới thức dậy, có lẽ mỗi người chúng ta đều nghe những bài thánh ca vang vọng bởi hệ thống âm thanh của giáo xứ, và ngay khi đặt chân vào phần đất thánh này, những bài ca về Đạo Hiếu vang vọng bên tai chúng ta, “ Chim có tổ nước có nguồn, con người cũng có tổ tiên …” và sự hiện diện của một cộng đoàn hết sức đông đảo trong ngày mùng hai tết nơi phần đất thánh này, điều đó làm cho chúng ta suy nghĩ về Đạo Hiếu.
Tôi thiết nghĩ ! chúng ta hiện diện nơi phần đất thánh này ngay sáng ngày mùng hai tết, ngày mà Giáo Hội Việt Nam dành riêng để nhắc nhớ chúng ta “ Kính nhớ Ông Bà Tổ Tiên “, chúng ta hiện diện nơi đây, không phải chỉ cầu nguyện cho những người đã khuất, nhưng đặc biệt giờ phút này, và cách đặc biệt hơn nữa trong năm mà chúng ta đang sống chủ đề Giáo Dục Gia Đình, thì chúng ta sẽ kín múc từ nơi Chúa Xuân một nguồn sức sống, chúng ta học nơi Đức Giesu bài học “ Trở thành người con ngoan trong gia đình “.
Kính mời anh chị em, chúng ta suy nghĩ đôi điều về cái đạo hiếu của Dân Việt chúng ta, về những bài Sách Thánh mà chúng ta nghe dậy về ngày tôn kính Ông Bà Cha Mẹ Tổ Tiên chúng ta.
“ Phụ Mẫu tại bất viễn du, du tất hữu phương “ Đức Khổng Tử khi xưa đã dậy những điều, có thể nói được là nhỏ nhặt như thế để thể hiện cái lòng tôn kính ông bà, để tỏ lòng thương mến cha mẹ chúng ta, cha mẹ còn sống thì không nên đi chơi xa, và đi đâu thì phải cho biết có nơi có chỗ. Từng li từng tí như thế, và nếu chúng ta đọc lại những lời dậy dỗ của Đức Khổng, thì chúng ta sẽ thấy rằng, còn biết bao nhiêu những lời căn dặn, những phong tục tỉ mỷ, mà trong cái hoàn cảnh xã hội ngày hôm nay, có thể rất nhiều điều không phù hợp nữa; Nhưng cái tinh thần đó, tôi thiết nghĩ nó vẫn còn phải được tất cả mỗi chúng ta khắc ghi và xử đối với Ông Bà Cha Mẹ Tổ Tiên của mình.
Chúng ta cũng có những câu Ca Dao mà không ai trong chúng ta có thể quên được ! “ Công cha như núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chẩy ra, một lòng thờ mẹ kính cha, cho tròn chữ hiếu mới là đạo con …” Đối với người công giáo, thì chúng ta đã quá rõ rồi ! những từ “ Thờ “ và từ “ Kính “ là chúng ta dành cho Thiên Chúa, Đấng đã tác thành nên chúng ta. Chúng ta dành cho Đức Mẹ, dành cho các Thánh, nhưng vấn đề chúng ta đã dùng những từ đó dậy chúng ta cái nghĩa vụ phải có đối với cha mẹ chúng ta, ông bà tổ tiên chúng ta, thì như thế ! rõ ràng chữ Hiếu đó không phải là cái gì chúng ta có thể làm ! hoặc không làm ! chữ Hiếu đó có thể là chúng ta làm ngày hôm nay, nó khác với hôm qua; Nhưng chữ Hiếu đó, nó chính là một cái đạo mà tất cả những ai làm con đều phải giữ !. Như lời cha phó chủ tế nhắc nhở ngay đầu Thánh Lễ: “ cho dù Lương giáo, cho dù người theo tôn giáo nào, thì Dân Tộc chúng ta vẫn luôn coi chữ Hiếu là cái đạo làm người phải giữ “.
Kính thưa anh chị em ! còn đối với người tín hữu chúng ta, chúng ta cần phải tôn trọng chữ Hiếu này hơn nữa ! bởi vì trong mười điều răn, mà ba điều răn mà Thiên Chúa dậy chúng ta phải có đối với đấng tạo hóa, đối với Thiên Chúa, thì những điều răn còn lại Chúa dậy chúng ta cái bổn phận đối với nhau,, cái xử thế, mối tương giao này ngay giữa chúng ta với anh chị em mình, thì điều răn đầu tiên mà Chúa dậy chúng ta, đó là giữ lòng thảo kính đối với ông bà cha mẹ của mình.
Sách Đức Huấn Ca, bài đọc mà chúng ta thường đọc, trong những ngày cầu cho cha mẹ, “ Nhắc đến cho chúng ta lòng thảo hiếu, đối với cha mẹ, đem lại nhiều lợi ích để đền bù tội lỗi, để con cái sau này thảo hiếu lại, và những lời cầu nguyện của chúng ta sẽ được Chúa nhận lời “.
Phúc âm theo Thánh Luca, viết lại cho chúng ta mẫu gương của Đức Giesu nơi mái ấm Nagiaret một câu tóm tắt thôi, đáng cho chúng ta suy ngẫm ! “ Rồi Ngài theo chân mẹ trở về Nagiaret và vâng lời các Ngài “ Một vị Thiên Chúa của nhân loại nhưng đã coi trọng Đấng đã sinh thành nên mình, trong tư cách làm người Đức Giesu nơi mái ấm Nagiaret đó hằng vâng phục mẹ Maria và Thánh Cả Giuse, và cụ thể trong bài tin mừng chúng ta vừa nghe, những người Do Thái khi xưa, đã nại ra những bổn phận họ chu tất, theo cái thời luật dậy, để có thể nói được là xao lãng đi cái bổn phận phải thờ cha kính mẹ, thì Đức Giesu đã chỉnh đốn cái quan niệm lệch lạc đó, “ Như thế các ông dựa vào truyền thống của các ông mà hủy bỏ lời Thiên Chúa “ và như thế, Đức Giesu xác định với mỗi người chúng ta rằng, “ Cái tâm tình và thái độ tôn trọng, thảo kính đối với ông bà tổ tiên, đó chính là lời Thiên Chúa dậy chúng ta !.
Đặc biệt trong năm nay ! năm mà chúng ta sống chủ đề, “ Giáo Dục Gia Đình “ theo giáo huấn của Thánh Tông Đồ Phaolo, chúng ta thấy vị Tông Đồ đó đặc biệt nhấn mạnh đến cái đạo hiếu, đến cái nghĩa vụ vợ chồng, đến cái bổn phận của cha mẹ đối với con cái như thế nào, kẻ làm con phải vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa, điều đó là điều phải đạo, là hãy tôn kính cha mẹ, đó là điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa để ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất này, lời mà Tông Đồ Phaolo vừa nhắc lại trong bài đọc mà chúng ta vừa nghe.
Kính thưa qúy ông bà anh chị em thân mến ! có lẽ, ngày hôm nay, hơn lúc nào hết, những bài thánh ca, những bài hát về đạo hiếu, thích được nhiều người lắng nghe, thích được nhiều người dùng, chúng ta thấy là, đặc biệt là quý ông bà Hải Ngoại về, thích mua những cái băng nhạc, những đĩa nhạc nói về đạo hiếu.
Chúng ta cũng thấy chiều hôm qua ! đi ngang qua phần đất thánh này, và giờ đây cụ thể, anh chị em thấy, các phần mộ của thân nhân của mình rực rỡ hoa nến ! một khung cảnh rất là đẹp !; Nhưng ngược lại, thưa quý ông bà và anh chị em ! trong hoàn cảnh ngày hôm nay ! trong các gia đình, và ngay cả trong các gia đình Kito hữu chúng ta vẫn phải chấp nhận một thực trạng, đó là “ Cha mẹ đau khổ về con cái “ và xin lỗi quý ông bà anh chị em, những người đứng trên cương vị làm cha làm mẹ, nhiều khi con cái ngày hôm nay, cũng đã mất đi một cái hình ảnh rất đẹp về những Đấng Phụ Mẫu của mình ! Tại sao thế ?.
Thưa ông bà anh chị em ! tôi thiềt nghĩ ! có thể nhiều người đổ thừa cho rằng, ngày hôm nay chúng ta chịu ảnh hưởng của Văn Minh Tây Phương, nhiều người cho rằng, chúng ta tiếp cận với những cái giao lưu của những cái Văn Hóa Hiện Đại. v.v.v. nhưng tôi thiết nghĩ ! cái nét căn bản là chúng ta đánh mất đi, hoặc là giảm sút đi lòng tôn thờ Thiên Chúa ! khi người ta gạt bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống của mình, thì Đức Kito đã đậy chúng ta “ Là hãy nhận ra dung mạo của Người nơi anh chị em đang sống xung quanh “, và chính vì thế ! tôi thiết nghĩ ! Thánh Lễ hôm nay, chúng ta hiện diện nơi phần đất thánh này, để trước hết cầu nguyện cho Ông Bà Cha Mẹ Tổ Tiên chúng ta những người đã khuất, nhưng nguyên điều đó thôi chưa đủ ! chúng ta còn phải cầu nguyện, để chúng ta học nơi Thiên Chúa ! đặc biệt nơi hình ảnh của Đức Giesu con Thiên Chúa làm người, cách sống làm người, cách sống làm con, cách sống làm bạn, đối với tất cả mọi người. Đứng trước phần mộ cha cố Phero hôm nay, tôi đã thưa lên với Người ! xin Người hằng bầu cử cùng Chúa, chúc lành cho công việc mà Giáo Xứ chúng ta sắp thực hiện !. Cũng như ngày giỗ của cha cố Gioan Baotixita, tôi cũng đã thưa với cộng đoàn, tôi đã thăm viếng phần mộ của Ngài và xin phép Ngài. “ Để nếu đẹp lòng Chúa ! thì xin cho chúng con được tu sửa lại ngôi nhà thờ mà chính Ngài cũng như giáo dân, cũng như tất cả các vị tiền bối của chúng ta đã góp công xây dựng “.
Thế nhưng ! đồng thời chúng ta cầu nguyện với các Đấng, cái lời cầu xin như thế, thì chúng ta cũng sẽ thấy cái việc mà chúng ta phải làm hôm nay cũng vậy thưa anh chị em !.
Chúng ta hiện diện bên phần mộ của những người thân chúng ta, để cầu nguyện cho các Ngài, nhưng nơi phần mộ những thân nhân này, có lẽ chúng ta học lại, chúng ta thấy được cái nhiệm vụ trước mắt là chúng ta phải làm khi còn sống thì chẳng cho ăn đến khi thác xuống làm văn tế ruồi.
Có lẽ hiện diện nơi phần mộ của người cha, hoặc người mẹ chúng ta đây, chúng ta đang hối tiếc lại những gì chúng ta đã, đáng lẽ chúng ta phải làm, mà chúng ta đã không làm ! thì hôm nay, chính sự hiện diện này, nơi phần mộ những người đã khuất, chúng ta đọc được Thánh Ý Thiên Chúa ! và học được cái bài học, mà chúng ta phải thực hiện với những người còn đang sống, chính có thể là một người Cha người Mẹ, đó có thể là cả Cha lẫn Mẹ, đó có thể là người Anh người Cậu, người Dì … chúng ta, mà chúng ta phải thể hiện lòng đạo hiếu khi chúng ta còn có thể làm.
Thưa anh chị em ! chớ chi trong năm Giáo Dục Gia Đình, chúng ta khắc ghi lời câu đối, chúng ta treo nơi Thánh Đường, thỉnh cầu ơn Thiên Chúa xin cho chúng ta biết hằng ngày chạy đến với Thiên Chúa, để thể hiện lòng tôn thờ Ngài, xin cho chúng ta năng gặp gỡ Chúa Giesu mỗi ngày để chúng ta học nơi Ngài, cái bổn phận chu toàn Thánh Ý Thiên Chúa Cha và bổn phận làm con nơi mái ấm gia đình Nagiaret, và chớ chi chúng ta cũng đọc được cái vế câu là “ Mừng Xuân Ghi Nhớ Đức Tổ Tiên “ chớ chi cách sống của chúng ta, sống như thế nào để cha mẹ đã khuất, ông bà đã khuất, cảm thấy hài lòng nơi Vĩnh Phúc, và những Đấng đang hiện diện với chúng ta cảm thấy hạnh phúc bởi vì mình đã xây dựng lên và ngày hôm nay vẫn còn đang diễm phúc, vẫn còn đang nhìn thấy lũ cháu đàn con.
Và ước chi như một lời ngỏ cuối cùng ! cũng xin các Đấng sinh thành như các cha mẹ còn sống chúng ta cũng ý thức được điều đó ! “ Sống như thế nào, để khi chúng ta nằm xuống, con cái vẫn ghi nhớ công đức của mỗi chúng ta ! Mong được như vậy !"
Thái Hà Mạch Hồi Sinh
Nhân dịp Xứ Thái Hà bước vào Năm Đại Khánh.
Năm Đại Khánh Xứ Thái Hà, Hà Nội,
Mở cửa trời Công Chính luật Yêu Thương.
Mời mọi Người phiêu bạt khắp muôn phương,
Cùng qui tụ hưởng Hồng Ân Đại Xá.
Ngược dòng đời lịch sử … 80 năm,
Bao công khó buổi đầu gieo hạt giống.
Hạt Đức Tin, hy vọng giúp tha nhân,
Lòng mến Chúa yêu mọi Người đối diện.
Mặc hiểm nguy thử thách kiếp gian nan,
Thêm bắt bớ tù giam hành thân xác.
Vững lòng Tin Cậy Mến Chúa Ba Ngôi,
Đem Lời Chúa truyền rao cho Nhân thế.
Từ hư vô Tạo Hóa Đấng an bài,
Mong trọn hảo Ngôi Lời Con nhập thể.
Đưa Thần Khí thổi hơi truyền sự sống,
Biến đổi dần cả vũ trụ hồi sinh.
Cho muôn dân cảm nhận sự An Bình,
Làm Con Chúa tuyệt vời trong vạn vật.
Lời minh ước giao hòa Trời với Đất,
Thuở ban đầu trật tự cõi huyền linh.
Nay Trời chiếu Ánh Sáng Đức Công Minh,
Ta mau tới lãnh nhận ơn Hòa Giải.
Nguồn Ân Sủng Chúa Thánh Thần đổi mới,
Biến phận Người thành lễ vật sạch tinh.
Câu hoan ca vang tận cả Thiên Đình,
Muôn thế hệ ta là Con Thiên Chúa.
Ôi cảm mến tán tụng Hồng Ân Chúa,
Cứu muôn dân thoát vực thẳm tối tăm,
Trao hoàn lại Tình Yêu Thương tuyệt đối.
Ta mau tới Xứ Thái Hà, Hà Nội.
Mở cõi lòng hòa nhịp Mến Cậy Tin,
Cùng vui hưởng trọn … 1 năm Đại Khánh.
Tịnh
Nhà Tạm cô liêu … bốn vách tường,
Hồn bay nhẹ lướt đến tựa nương.
Khẽ ngồi bên Chúa hòa nhịp thở,
Lửa mến trong tim chuyển khác thường.
Khí huyết dâng cao cùng hiệp nhất,
Máu đào rửa sạch vết tội vương.
Tâm can biến đổi nên tinh khiết,
Chúa ngự hồn thơ dẫn bước đường.
Tình Yêu Tận Hiến
Nồng thắm trao ban người bạn trẻ,
Hiến trọn đời mình đến tha nhân.
Nến sáng trên tay soi tăm tối,
Rao truyền Chân Lý Chúa Kitô,
Đường thập tự là Chân Thiện Mỹ,
Mặc dù thử thách vững kiên trung.
Xin Chúa đổ tràn Hồng Ân huệ,
Đến ngày vinh phúc trước Tôn Nhan.
( Mến tặng Qúi Cha và Anh Em Tu Sĩ. .. DCCT )
Chẳng khóc mà sao mắt lệ mờ?
Tuổi tác thêm sầu bờ đất khách,
Tháng năm xót dạ chốn quê xưa.
Rượu nồng ray rứt lòng nhân thế,
Phím nhạc tơ chùng hết mộng mơ.
Lá rụng bên thềm mai chẳng nở,
Xuân sang vắng nhạn khó đề thơ.
2. Xuân sang vắng nhạn khó đề thơ,
Ba mươi sắp hết chẳng ai chờ.
Khói nhang vắng lạnh nơi nhà miếu,
Rêu mốc đền xưa dấu phủ mờ.
Trời đất linh thiêng đổi cũ mới.
Nhân gian khắc khoải đón giao mùa.
Đì đùng dăm tiếng kêu ngoài ngõ,
Lẹt đẹt đôi nơi tiếng pháo hờ.
3. Lẹt đẹt đôi nơi tiếng pháo hờ,
Xa quê không pháo cũng giao thừa.
Tiễn đưa năm cũ không kèn trống,
Rước đón xuân sang với thẫn thờ!
Cơm áo ra đi thêm lẻ bóng.
Gối chăn ở lại mảnh tình trơ.
Tìm đâu mai thắm bên thềm cũ,
Chỉ thấy quanh đây dấu lệ mờ.
4. Chỉ thấy quanh đây dấu lệ mờ.
Xuân ơi xuân đến qúa thờ ơ.
Tủi người lỡ bước đôi tay trắng,
Xót kẻ quê nhà cạn ước mơ.
Năm tháng theo mây hương phấn nhạt,
Ngày giờ xum họp chỉ trong thơ.
Không hoa mưa nắng thêm hờn tủi.
Đất khách dở đời vết bụi nhơ!
5. Đất khách dở đời vết bụi nhơ.
Mười năm gió thoảng mấy ai ngờ:
Chim khôn vỡ tổ không nơi tựa,
Kẻ khó xa quê kiếp sống nhờ.
Ngoảnh mặt về nam nghe tiếc nuối,
Trông vời phương bắc nuốt bơ vơ.
Ai vui mảnh đất nhiều cơm áo?
Có kẻ khóc đêm bởi lỡ cờ.
6. Có kẻ khóc đêm bởi lỡ cờ,
Thương cho dân Việt giống Hời ơ !
Quê xưa gặp biến người nheo nhóc,
Đất mới tang thương gánh thẫn thờ.
Nhớ thuở cha ông gầy dựng nước,
Hờn nay con cháu ngủ như mơ,
Người đi chim cũng bay xa tổ,
Ai nhớ xuân sang để đợi chờ?
7. Ai nhớ xuân sang để đợi chờ,
Cho tôi nhắn với một lời thơ.
Đường xưa thân trúc lòng như đá,
Sao bỗng tùng cao mắt lệ mờ?
Đất cũ tết này chưa có phận,
Xuân nơi hải ngoại cũng không cờ?!
Trống chiêng khéo gõ muôn ngàn vẻ,
Cắc cắc beng beng chuyện vỡ bờ.
8. Cắc cắc beng beng chuyện vỡ bờ,
Non Lam mỏi cổ ngóng tin thơ.
Người đi theo nước, non không lại,
Kẻ ở trông mây, nước hững hờ
Lỡ vận trong tù đôi cánh én,
Thân cò cuối chợ gánh bơ vơ.
Tình riêng, riêng những vì non nước,
Gánh nặng cuối dòng ai đón đưa.
9. Gánh nặng cuối dòng ai đón đưa.
Dăm câu sáo ngữ khéo dư thừa.
Sớm mai múa rối, anh hàng trống,
Buổi tối nhi nhô, gã kéo cờ.
Tội kẻ đau lưng chân gối mỏi,
Khốn người tóc bạc mắt hoen mờ.
Khói nhang khấn vái làn nghi ngút,
Áo mão cân đai hổ bóng cờ.
10. Áo mão cân đai tủi bóng cờ,
Non cao mẹ gọi mảnh tình trơ.
Bốn ngàn năm trước không xa tổ,
Mấy vạn đêm sau kiếp sống nhờ.
Hổ bước sa cơ hờn cũi sắt,
Người lâm quốc nạn dạ thờ ơ.
Trong làng tiếng trống cầm hơi thở,
Ngoài ngước khua chiêng khéo hững hờ.
VƯỢT LÊN TRỜI MỚI
Ảnh của Cao Tường
Ai tới đó chẳng mê man thần tríTòa châu báu kết bằng hương kỳ dị
Của tình yêu rung động lớp hào quang.
(Thơ Hàn Mặc Tử, Siêu Thoát)
Click here to go to PhotoArt Meditation Room - Phòng Ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền




