Ngày 21-01-2009
 
Phụng Vụ - Mục Vụ
Mở ngỏ về phía trước
LM. Giuse Nguyễn Hữu An
02:21 21/01/2009

MỞ NGÕ VỀ PHÍA TRƯỚC.



CN 3 B

Trong tuyển tập truyện hay, Giấc Mộng Vàng, có kể câu chuyện giàu ý nghĩa.

Có một Thầy Ẩn tu tên là Xê-bat-chiêng thường đến cầu nguyện tại một nhà nguyện vắng vẻ trên núi. Trong nhà nguyện này dân chúng tôn kính một tượng Thánh Giá với tước hiệu là "Tượng Chúa ban ơn".

Thấy dân chúng có lòng tin thường đến cầu xin ơn lành, Thầy Xê-bat-chiêng cũng thêm lòng tin cậy.

Một hôm vắng người, Thầy quỳ gối trước Thánh Giá và chân thành khấn nguyện: " Lạy Chúa,con ước ao được chia sẻ đau khổ với Chúa, xin cho con được thế chỗ Chúa trên thánh giá".

Thầy quỳ yên lặng, mắt đăm đăm nhìn lên Thánh Giá mong đáp lời. Một lúc sau, từ Thánh Giá có tiếng phán bảo: "Được, Ta bằng lòng để con thế chỗ Ta trên Thánh Giá nhưng với một điều kiện duy nhất là bất cứ điều gì xảy ra, tai con nghe gì, mắt con thấy gì, con đều phải giữ im lặng không được nói năng gì hết ". Xê-bat-chiêng hứa và được Chúa Giêsu cho lên thế chỗ Ngài trên Thánh Giá.

Ngày qua ngày, dân chúng vẫn đến trước tượng Thánh Giá để cầu nguyện. Không ai hay biết về việc đổi chỗ này.

Một hôm, có người xứ nọ đến cầu nguyện. Khi ra về, ông để quên dưới ghế quỳ cái túi đầy những đồng tiền vàng. Thấy vậy Thầy vẫn yên lặng.

Lúc sau, có một người nghèo khổ vào nhà nguyện, ông ta sung sướng nhìn túi tiền vàng, tưởng là Chúa ban cho liền xách túi, tạ ơn và đi ra.

Rồi có một chàng thanh niên vào quỳ gối khẩn nguyện xin ơn che chở vì sắp đi xa. Vừa ra khỏi nhà nguyện thì gặp người phú hộ trở lại tìm túi tiền. Không thấy đâu, ông nghi chàng thanh niên đã lấy đi, tranh cãi và cả hai mời cảnh sát phân xử.

Không cầm lòng được nữa, từ trên Thánh Giá, Thầy Xê-bât-chiêng hét lên: Đứng lại. Mọi người ngạc nhiên. Thầy phân trần sự việc. Người phú hộ tìm người nghèo xin lại túi tiền. Chàng thanh niên cũng vội vã đi cho kịp chuyến tàu.

Khi không còn ai trong nhà nguyện, Chúa Giêsu lên tiếng bảo Xê-bat-chiêng: " Con hãy xuống ngay khỏi Thánh Giá,con không xứng đáng thế chỗ cho Ta,vì con đã không biết giữ yên lặng như lời con đã hứa."

Thầy vội vã phân trần: Nhưng lạy Chúa,làm sao con có thể chịu đựng được cảnh bất công đó ?

Chúa Giêsu đáp: Thật con không hiểu gì hết ! Tiền của người phú hộ là tiền bất lương, trong khi người nghèo đói kia vất vả mà không kiếm đủ miếng cơm manh áo cho đàn con nhỏ.Và nếu chàng thanh niên kia có bị cảnh sát giữ lại, anh ta lỡ chuyến tàu, như thế đã cứu được mạng sống mình. Kìa, tàu của anh ta đang lao đao giữa biển cả sắp chìm vì sóng to gió lớn.

Câu chuyện này nhắc chúng ta nhớ đến Lời Chúa trong sách Isaia: “Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi,đường lối của Ta không phải là đường lối của các ngươi. Như trời cao hơn đất bao nhiêu thì tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng của các ngươi bấy nhiêu”.

Trong suy nghĩ của con người,chúng ta không thể hiểu được tại sao Chúa Giêsu lại gọi bốn môn đệ đầu tiên để đặt nền tảng xây dựng Giáo hội như bài phúc âm đã kể. Vì đó là những con người chài lưới, "ăn với sóng, nói với gió", ít học, quê mùa. Chúa Giêsu lại chọn họ làm môn đệ.Tại sao Chúa không chọn những Luật sĩ, những Pharisiêu, những Ký lục thông thái ?

Cũng như chúng ta cũng tự hỏi, tại sao Chúa Giêsu không sinh ra nơi cung điện nguy nga lộng lẫy mà lại chọn hang đá Bêlem hôi hám lạnh lẽo để giáng sinh ? Tại sao Chúa Giêsu lại chọn cái chết Thập giá đau đớn tủi nhục để làm phương thế cứu độ? Ngắm nhìn Hài Nhi trong máng cỏ cũng như nhìn lên tử tội Giêsu trên thập giá, chúng ta thường tự hỏi tại sao Chúa lại thích những điều nghịch lý ? Làm sao người ta có thể tuyên xưng Chúa là Đấng Giải Thoát khi Chúa lại đến trong dáng vẻ yếu đuối bé bỏng như thế?

Thánh Phaolô đã từng thốt lên: Trong khi người Hy lạp tìm kiếm sự khôn ngoan, trong khi người Do thái tìm các dấu lạ, thì chúng tôi lại rao giảng Đức Kitô chịu đóng đinh, một sự điên rồ đối với lý trí nhân loại.

Bởi đó, đường lối của Thiên Chúa không phải là đường lối của con người. Thiên Chúa là Đấng Sáng Tạo. Con người chỉ là thụ tạo.

Chúa Giêsu thường chọn những cái nghịch lý để làm những điều vĩ đại. Tám mối phúc thật là nghịch lý đối với người đời nhưng lại là Hiến Chương Nước Trời. Chúa Giêsu không đến với sức mạnh bạo lực nhưng với những gì yếu ớt mỏng manh kết tụ nơi Hài Nhi bé nhỏ. Chúa Giêsu cũng kêu gọi những người tầm thường, những người khiêm nhường bé nhỏ. Chính bằng cái mỏng manh bé nhỏ ấy mà Người khơi dậy nơi con người cái chân tâm để rồi tình yêu của Người giúp họ biến đổi để trở nên những rường cột của Giáo hội.

Như thế Chúa nhìn con người với cái nhìn yêu thương, tôn trọng, luôn thấy cái tốt, cái đáng yêu nơi mỗi người cho dù họ nhỏ bé, họ tầm thường. Chính sự bé nhỏ đó mà Chúa biến đổi để nên lớn lao.

Mỗi người chúng ta trong cách nhìn về tha nhân cũng cần học theo gương của Chúa. Đó là cái nhìn về phía đàng trước, về phía tương lai.

Nhiều lần ta khóa chặt anh chị em mình trong quá khứ lỗi lầm. Nhiều khi chỉ vì vài xích mích, vài lỗi lầm trong cuộc sống, nhưng ta lại vịn vào đó mà phủ nhận, mà phán đoán và đánh giá chính họ theo thành kiến của mình. Có người vì giận Cha xứ mà bỏ Nhà thờ không đi lễ, không xưng tội rước lễ. Có người tâm sự: mọi người coi tôi như một người xấu xa, ai cũng lên án, ai cũng xa lánh, cùng lắm chỉ thương hại, không còn cánh cửa mở ra phía trước cho tôi.

Về mặt xã hội, mấy mươi năm qua cũng có thái độ xét đoán con người như thế. "Chủ nghĩa lý lịch" tạo nên sự kỳ thị khủng khiếp. Biết bao nhân tài bị mai một, không phát huy được tài năng chỉ vì lý lịch. Biết bao kẻ bất tài nhờ lý lịch được thăng quan tiến chức. “Chủ nghĩa lý lịch” kỳ thị, phân biệt đối xử, nó vẫn đang hoành hành mọi ngõ ngách cuộc sống hôm nay. Những người có Tài thật sự, vì ‘vướng’ chữ Đức, chữ Tâm mà không thể thành danh dưới trướng “chủ nghĩa lý lịch”. Một đất nước mà báo chí chỉ được phép “đi bên lề phải”, và chỉ những ai cam chịu làm bồi bút mới được trọng dụng thì làm sao đi lên phát triển được. Bao giờ mới hết chủ nghĩa phi nhân này? Khóa chặt con người trong quá khứ, một quá khứ của người xưa, do hoàn cảnh xã hội tạo nên. Vì quá khứ ấy mà mà mọi cánh cửa mở ra cho tương lai của xã hội đất nước cũng bị thiệt thòi.

Tôi có một niềm vui ấm áp mùa Giáng Sinh vừa qua. Trong giáo xứ có gia đình gồm hai vợ chồng và ba đứa con nhỏ. Nhà cửa rách nát, xiêu vẹo rất đáng thương. Mỗi khi mưa gió, cả mấy mẹ con phải bồng bế sang hàng xóm trốn mưa. Tôi viết thư đến Hội Thánh Linh ở Seatle, xin giúp cho họ căn nhà tình thương. Các hội viên đóng góp mỗi người một ít trợ giúp. Thông báo tin vui này cho gia đình. Bà con trong làng không ai chấp nhận xây nhà tình thương cho gia đình nghèo ấy. Họ nói lý do vì chồng trộm cắp, vợ lười biếng, không sinh hoạt chung, không đóng góp công việc chung. Ai cũng nhìn với cái nhìn loại trừ. Với tiêu chuẩn xã hội, ai cũng muốn kết án.Kẻ bị kết án thì đau khổ một mình.Tôi phân vân suy nghĩ mãi. Có nên hay không? Bà con làng xóm đều nói đúng và muốn công bằng. Nhưng Chúa dạy phải sống đức bác ái, không kết án mà phải mở ngỏ nhìn về phía trước. Biết đâu vì quá nghèo nên chồng mới sinh ra trộm cắp để nuôi con? Ba đứa con nhỏ, phải ở nhà chăm con nên vợ bị cho là lười biếng? Biết đâu vì là đàn ông mà không làm nổi căn nhà cho vợ con ở nên chồng sinh ra nhậu nhẹt? Nếu đựơc giúp đỡ, hy vọng vợ chồng này sẽ bỏ tật xấu để sống tốt hơn! Suy nghĩ như vậy, tôi quyết định xây nhà cho họ với một điều kiện là chồng phải bỏ các thói xấu rượu chè trộm cắp. Tôi kêu mời bà con đến giúp, góp công xúc đất đắp nền. Sau nửa tháng căn nhà xây xong. Tôi đến làm phép nhà, bà con làng xóm cùng chia vui, mọi người tạ ơn Chúa và tri ân các ân nhân. Tôi cùng vui với bà con, một niềm vui chan hoà ấm áp tình người. Căn nhà xây nhỏ bé, đơn sơ nhưng là cả khung trời hạnh phúc của gia đình nghèo này. Một ước mơ nhỏ bé thôi, vậy mà sau mười năm lập gia đình, nó mới thành hiện thực. Với người nghèo, một căn nhà ấm cúng đã là đong đầy niềm vui chan chứa. Hai vợ chồng siêng năng đi đọc kinh chung trong giáo họ, tham gia công việc chung của giáo xứ và không còn làm buồn phiền xóm làng nữa. Niềm vui ấm áp của một gia đình nghèo là như thế đó. Có ai muốn sống xấu đâu, mình tạo điều kiện để cái tốt đựơc hé mở và bừng phát nơi mỗi con người vốn tính bản thiện.

Xem ra con người ta vẫn hay nhìn lại phía đàng sau hơn là nhìn về phía đàng trước. Trong khi đó niềm tin vào Thiên Chúa, Đấng mở ngỏ cho tương lai, lại thúc bách ta nhìn về phía tương lai. Nhìn về phía tương lai là không chấp nhận thái độ thất vọng: thất vọng về chính mình, về anh em, về cuộc đời. Nhìn về phía tương lai là thay thế thất vọng bằng niềm tin: tin vào chính mình, tin vào con người, tin vào cuộc đời. .. Và trên hết cũng như sâu hơn hết là tin vào Thiên Chúa, Đấng mở ngỏ và dẫn đưa chúng ta đi về tương lai.

Lạy Chúa, nếu con cần lòng nhân từ của Chúa đối với con, thì tại sao con lại xem thường lòng nhân từ của Chúa đối với người khác? Nếu con cần lòng kiên nhẫn của Chúa để con làm lại cuộc đời sau khi lầm lỗi thì tại sao con lại khinh thường lòng kiên nhẫn của Chúa đối với người khác? Nếu con cần lòng quãng đại của Chúa đối với sa ngã của con thì tại sao con lại xem nhẹ lòng quãng đại của Chúa đối với người khác?

Xin cho con thêm lòng mến Chúa để luôn nhìn mọi người với tâm hồn bao dung và quãng đại. Xin cho con luôn đặt trọn niềm tin vào tình yêu lạc quan của Chúa Đấng mở ngỏ về phía tương lai cho con người. Amen.
 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
11 người sắp được phong chân phước
Bùi Hữu Thư
02:18 21/01/2009

11 người sắp được phong chân phước



Trong số đó có 6 người Tây Ban Nha

VATICAN, ngày 20 tháng 1, 2009
(Zenit.org).- Đức Thánh Cha Benedict XVI đã cho phép phổ biến các sắc lệnh công nhận các nhân đức oai hùng và phép lạ được gán cho gần một tá Đầy Tớ của Thiên Chúa.

Ngày Thứ Bẩy, Đức Thánh Cha tiếp kiến riêng Tổng Giám Mục Angelo Amato, Bộ Trưởng Bộ Phong Thánh và cho phép bộ này phổ biến các sắc lệnh sau đây.

Các phép lạ được gán cho sự cầu bầu của các vị sau đây:

  • Ciriaco María Sancha y Hervás (1833-1909), Đức Hồng Y, Tổng Giám Mục Toledo, sáng lập viên Dòng Nữ Tu Bác Ái, người Tây Ban Nha.
  • Carlo Gnocchi (1902-1956), Linh Mục Triều và sáng lập viên "Fondazione Pro Juventute,” (Hiệp Hội Giới Trẻ) người Ý.
  • Bernardo Francisco de Hoyos (1711-1735), Linh Mục Thệ Sĩ Dòng Tên, người Tây Ban Nha.
  • Raphael Rafiringa (1856-1919) (tên thật Louis), Tu sĩ khấn trọng Tu Hội Các Thầy Giảng Trường Công Giáo, người Madagascar.
  • Eustachio Kugler (1867-1946) (tên thật Joseph), Tu sĩ khấn trọng Dòng Hospitaller Order of St. John of God, người Đức.
Việc công bố các nhân đức oai hùng của các vị sau đây cũng đã được chấp thuận:

  • Juan de Palafox y Mendoza (1600-1659), Đức Giám Mục Osma, người Tây Ban Nha.
  • Robert Spiske (1821-1888), Linh Mục triều và sáng lập viên Dòng Các Nữ Tu Thánh Hedwig, người Ba Lan.
  • Carolina Beltrami (1869-1932), Sáng lập viên Dòng các Nữ Tu Immaculatine, người Ý.
  • María Salvat Romero (1926-1998) (tên thật Maria Isabella), Bề Trên Tổng Quyền các Nữ Tu Dòng Thánh Giá, người Tây Ban Nha.
  • Liberata Ferrarons y Vives (1803-1842), Nữ giáo dân Dòng Ba Carmelô, người Tây Ban Nha.
Tháng trước, Đức Thánh Cha cũng đã chấp thuận sắc lệnh công bố nhân đức oai hùng của José Tous y Soler (1811-1871), Linh Mục Thệ Sĩ Dòng Phanxicô Cải Cách và sáng lập viên Dòng Nữ Tu Phanxicô Cải Cách Mother of the Divine Shepherd (Mẹ Chúa Chăn), người Tây Ban Nha.
 
Diễn văn nhận chức của TT Obama (nhưng cũng bị báo CSVN cắt xén!)
Maria Vũ Loan
14:41 21/01/2009
Báo Vietnamnet và một số báo chí khác của CSVN đã không dám đương đầu với câu phê phán của tân Tổng thống Obama nên đã cắn xén lời của ông. Trong bài phát biểu nhậm chức của Tân Tổng thống Hoa Kỳ có mấy câu phê bình quan trọng bị cắt xén như sau:

1/ Nguyên văn: "Recall that earlier generations faced down fascism and communism not just with missiles and tanks, but with sturdy alliances and enduring convictions."

Có nghĩa là: "Hãy nhớ rằng thế hệ cha anh chúng ta đã hạ gục chủ nghĩa phát xít và chủ nghĩa cộng sản, không chỉ bằng tên lửa và xe tăng mà bằng những liên minh vững chắc và bằng niềm tin bền bỉ."

Báo chí Việt cộng cắt từ "hạ gục chủ nghĩa cộng sản": (faced down fascism and communis). Có lẽ họ không dám nhìn nhận sự chết dần chết mòn của chủ nghĩa cộng sản!?

2/ Nguyên văn: "To those who cling to power through corruption and deceit and the silencing of dissent, know that you are on the wrong side of history; but that we will extend a hand if you are willing to unclench your fist".

Có nghĩa là: "Đối với những người bám lấy quyền lực nhờ tham nhũng, dối trá và bịt miệng tiếng nói đối lập, hãy biết rằng quý vị đang đi ngược lịch sử, nhưng chúng tôi sẽ chìa tay ra nếu quý vị biết từ bỏ nắm đấm."

Báo Việt cộng viết là: "Xin nói với những ai đang leo lên quyền lực bằng con đường tham nhũng và trấn áp sự bất đồng chính kiến, rằng các vị đang đi sai con đường lịch sử, song chúng tôi sẽ dang tay nếu các vị tự giải phóng cho mình đầu tiên."

Như vậy họ đã cắt từ deceit: nghĩa là lừa dối, lừa đảo. Có lẽ vì họ sợ đụng đến bản chất của họ!?

Với bản chất gian dối và thường xuyên cắt xén (cắt xén lương cấp dưới, cắt xén quỷ viện trợ cho người nghèo, cắt xén công quỷ…), bồi bút của báo nhà nước CSVN đã cắt xén những gì phơi bày bản chất gian trá của họ.

Ngài Tổng Giám mục Hà Nội xin đừng buồn vì cả lời Tổng thống Mỹ cũng bị xén, chứ không riêng gì lời của ngài đâu. Chỉ có khác là ông Obama không bị đấu tố như ngài, vì ông Obama không có hộ chiếu Việt Nam.

Dưới đây xin mời qúi vị độc giả xem nguyên văn tiếng Anh dưới đây, cùng bản dịch của Vietnamnet và của BBC để đối chiếu.

Thợ rèn Nghệ An

Obama's inaugural speech

http://edition.cnn.com/2009/POLITICS/01/20/obama.politics/index.html?iref=mpstoryview

My fellow citizens:

I stand here today humbled by the task before us, grateful for the trust you have bestowed, mindful of the sacrifices borne by our ancestors. I thank President Bush for his service to our nation, as well as the generosity and cooperation he has shown throughout this transition.

Forty-four Americans have now taken the presidential oath. The words have been spoken during rising tides of prosperity and the still waters of peace. Yet, every so often, the oath is taken amidst gathering clouds and raging storms. At these moments, America has carried on not simply because of the skill or vision of those in high office, but because We the People have remained faithful to the ideals of our forebearers, and true to our founding documents.

So it has been. So it must be with this generation of Americans.

That we are in the midst of crisis is now well understood. Our nation is at war, against a far-reaching network of violence and hatred. Our economy is badly weakened, a consequence of greed and irresponsibility on the part of some, but also our collective failure to make hard choices and prepare the nation for a new age. Homes have been lost; jobs shed; businesses shuttered. Our health care is too costly; our schools fail too many; and each day brings further evidence that the ways we use energy strengthen our adversaries and threaten our planet.

These are the indicators of crisis, subject to data and statistics. Less measurable but no less profound is a sapping of confidence across our land -- a nagging fear that America's decline is inevitable, and that the next generation must lower its sights.

Today I say to you that the challenges we face are real. They are serious and they are many. They will not be met easily or in a short span of time. But know this, America: They will be met.

On this day, we gather because we have chosen hope over fear, unity of purpose over conflict and discord.

On this day, we come to proclaim an end to the petty grievances and false promises, the recriminations and worn-out dogmas, that for far too long have strangled our politics.

We remain a young nation, but in the words of Scripture, the time has come to set aside childish things. The time has come to reaffirm our enduring spirit; to choose our better history; to carry forward that precious gift, that noble idea, passed on from generation to generation: the God-given promise that all are equal, all are free, and all deserve a chance to pursue their full measure of happiness.

In reaffirming the greatness of our nation, we understand that greatness is never a given. It must be earned. Our journey has never been one of shortcuts or settling for less. It has not been the path for the fainthearted -- for those who prefer leisure over work, or seek only the pleasures of riches and fame. Rather, it has been the risk-takers, the doers, the makers of things -- some celebrated, but more often men and women obscure in their labor -- who have carried us up the long, rugged path toward prosperity and freedom.

For us, they packed up their few worldly possessions and traveled across oceans in search of a new life.

For us, they toiled in sweatshops and settled the West; endured the lash of the whip and plowed the hard earth.

For us, they fought and died, in places like Concord and Gettysburg; Normandy and Khe Sahn.

Time and again, these men and women struggled and sacrificed and worked till their hands were raw so that we might live a better life. They saw America as bigger than the sum of our individual ambitions; greater than all the differences of birth or wealth or faction.

This is the journey we continue today. We remain the most prosperous, powerful nation on Earth. Our workers are no less productive than when this crisis began. Our minds are no less inventive, our goods and services no less needed than they were last week or last month or last year. Our capacity remains undiminished. But our time of standing pat, of protecting narrow interests and putting off unpleasant decisions -- that time has surely passed. Starting today, we must pick ourselves up, dust ourselves off, and begin again the work of remaking America.

For everywhere we look, there is work to be done. The state of the economy calls for action, bold and swift, and we will act -- not only to create new jobs, but to lay a new foundation for growth. We will build the roads and bridges, the electric grids and digital lines that feed our commerce and bind us together. We will restore science to its rightful place, and wield technology's wonders to raise health care's quality and lower its cost. We will harness the sun and the winds and the soil to fuel our cars and run our factories. And we will transform our schools and colleges and universities to meet the demands of a new age. All this we can do. And all this we will do.

Now, there are some who question the scale of our ambitions -- who suggest that our system cannot tolerate too many big plans. Their memories are short. For they have forgotten what this country has already done; what free men and women can achieve when imagination is joined to common purpose, and necessity to courage.

What the cynics fail to understand is that the ground has shifted beneath them -- that the stale political arguments that have consumed us for so long no longer apply. The question we ask today is not whether our government is too big or too small, but whether it works -- whether it helps families find jobs at a decent wage, care they can afford, a retirement that is dignified. Where the answer is yes, we intend to move forward. Where the answer is no, programs will end. And those of us who manage the public's dollars will be held to account -- to spend wisely, reform bad habits, and do our business in the light of day -- because only then can we restore the vital trust between a people and their government.

Nor is the question before us whether the market is a force for good or ill. Its power to generate wealth and expand freedom is unmatched, but this crisis has reminded us that without a watchful eye, the market can spin out of control -- and that a nation cannot prosper long when it favors only the prosperous. The success of our economy has always depended not just on the size of our gross domestic product, but on the reach of our prosperity; on our ability to extend opportunity to every willing heart -- not out of charity, but because it is the surest route to our common good.

As for our common defense, we reject as false the choice between our safety and our ideals. Our Founding Fathers, faced with perils we can scarcely imagine, drafted a charter to assure the rule of law and the rights of man, a charter expanded by the blood of generations. Those ideals still light the world, and we will not give them up for expedience's sake. And so to all other peoples and governments who are watching today, from the grandest capitals to the small village where my father was born: Know that America is a friend of each nation and every man, woman and child who seeks a future of peace and dignity, and that we are ready to lead once more.

Recall that earlier generations faced down fascism and communism not just with missiles and tanks, but with sturdy alliances and enduring convictions. They understood that our power alone cannot protect us, nor does it entitle us to do as we please. Instead, they knew that our power grows through its prudent use; our security emanates from the justness of our cause, the force of our example, the tempering qualities of humility and restraint.

We are the keepers of this legacy. Guided by these principles once more, we can meet those new threats that demand even greater effort -- even greater cooperation and understanding between nations. We will begin to responsibly leave Iraq to its people, and forge a hard-earned peace in Afghanistan. With old friends and former foes, we will work tirelessly to lessen the nuclear threat, and roll back the specter of a warming planet. We will not apologize for our way of life, nor will we waver in its defense, and for those who seek to advance their aims by inducing terror and slaughtering innocents, we say to you now that our spirit is stronger and cannot be broken; you cannot outlast us, and we will defeat you.

For we know that our patchwork heritage is a strength, not a weakness. We are a nation of Christians and Muslims, Jews and Hindus -- and nonbelievers. We are shaped by every language and culture, drawn from every end of this Earth; and because we have tasted the bitter swill of civil war and segregation, and emerged from that dark chapter stronger and more united, we cannot help but believe that the old hatreds shall someday pass; that the lines of tribe shall soon dissolve; that as the world grows smaller, our common humanity shall reveal itself; and that America must play its role in ushering in a new era of peace.

To the Muslim world, we seek a new way forward, based on mutual interest and mutual respect. To those leaders around the globe who seek to sow conflict, or blame their society's ills on the West: Know that your people will judge you on what you can build, not what you destroy. To those who cling to power through corruption and deceit and the silencing of dissent, know that you are on the wrong side of history; but that we will extend a hand if you are willing to unclench your fist.

To the people of poor nations, we pledge to work alongside you to make your farms flourish and let clean waters flow; to nourish starved bodies and feed hungry minds. And to those nations like ours that enjoy relative plenty, we say we can no longer afford indifference to suffering outside our borders; nor can we consume the world's resources without regard to effect. For the world has changed, and we must change with it.

As we consider the road that unfolds before us, we remember with humble gratitude those brave Americans who, at this very hour, patrol far-off deserts and distant mountains. They have something to tell us today, just as the fallen heroes who lie in Arlington whisper through the ages. We honor them not only because they are guardians of our liberty, but because they embody the spirit of service; a willingness to find meaning in something greater than themselves. And yet, at this moment -- a moment that will define a generation -- it is precisely this spirit that must inhabit us all.

For as much as government can do and must do, it is ultimately the faith and determination of the American people upon which this nation relies. It is the kindness to take in a stranger when the levees break, the selflessness of workers who would rather cut their hours than see a friend lose their job which sees us through our darkest hours. It is the firefighter's courage to storm a stairway filled with smoke, but also a parent's willingness to nurture a child, that finally decides our fate.

Our challenges may be new. The instruments with which we meet them may be new. But those values upon which our success depends -- hard work and honesty, courage and fair play, tolerance and curiosity, loyalty and patriotism -- these things are old. These things are true. They have been the quiet force of progress throughout our history. What is demanded then is a return to these truths. What is required of us now is a new era of responsibility -- a recognition, on the part of every American, that we have duties to ourselves, our nation and the world; duties that we do not grudgingly accept but rather seize gladly, firm in the knowledge that there is nothing so satisfying to the spirit, so defining of our character, than giving our all to a difficult task.

This is the price and the promise of citizenship.

This is the source of our confidence -- the knowledge that God calls on us to shape an uncertain destiny.

This is the meaning of our liberty and our creed -- why men and women and children of every race and every faith can join in celebration across this magnificent Mall, and why a man whose father less than 60 years ago might not have been served at a local restaurant can now stand before you to take a most sacred oath.

So let us mark this day with remembrance, of who we are and how far we have traveled. In the year of America's birth, in the coldest of months, a small band of patriots huddled by dying campfires on the shores of an icy river. The capital was abandoned. The enemy was advancing. The snow was stained with blood. At a moment when the outcome of our revolution was most in doubt, the father of our nation ordered these words be read to the people:

"Let it be told to the future world. .. that in the depth of winter, when nothing but hope and virtue could survive... that the city and the country, alarmed at one common danger, came forth to meet [it]."

America. In the face of our common dangers, in this winter of our hardship, let us remember these timeless words. With hope and virtue, let us brave once more the icy currents, and endure what storms may come. Let it be said by our children's children that when we were tested, we refused to let this journey end, that we did not turn back, nor did we falter; and with eyes fixed on the horizon and God's grace upon us, we carried forth that great gift of freedom and delivered it safely to future generations.

Diễn văn nhậm chức của ông Obama

(Theo BBC: http://www.bbc.co.uk/vietnamese/worldnews/story/2009/01/090120_obama_speech.shtml)

Ông Barack Obama đã tuyên thệ nhậm chức để trở thành tổng thống thứ 44 của Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ. Dưới đây là toàn văn bài phát biểu của ông (bản dịch của Ban Việt ngữ BBC):

Thưa quốc dân,

Tôi đứng đây ngày hôm nay, cảm thấy thật khiêm nhường trước trách nhiệm trước mắt, biết ơn về sự tin cậy của quý vị, và nhớ về những hy sinh của tổ tiên. Tôi xin cảm ơn Tổng Thống Bush về những cống hiến của Ngài cho đất nước, về sự hào phóng và tinh thần cộng tác của Ngài trong quá trình chuyển giao này.

Bốn mươi tư công dân Mỹ đã tuyên thệ nhận chức tổng thống. Những từ ngữ được vang lên trong những thời thịnh vượng và thời bình. Và những lời tuyên thệ cũng thường vang lên trong lúc dông bão. Vào những thời khắc đó, nước Mỹ đã vượt qua, không chỉ đơn giản nhờ vào kỹ năng hay tầm nhìn của những người lãnh đạo, mà bởi Chúng Ta, Nhân Dân Mỹ đã có niềm tin vào lý tưởng của cha ông, theo đúng tinh thần của các văn bản lập quốc của chúng ta.

Niềm tin đó đúng trong quá khứ. Niềm tin đó phải đồng hành với thế hệ người Mỹ hiện nay.

Các thách thức nghiêm trọng

Chúng ta hiện đang trong giữa cuộc khủng hoảng mà ai ai cũng biết. Đất nước chúng ta đang trong thời chiến, chống lại một mạng lưới bạo lực và thù hận rộng khắp, một phần là hậu quả của thái độ tham lam, vô trách nhiệm của một số người, nhưng cũng là hậu quả của việc chúng ta đã thất bại, không có những lựa chọn khó khăn, chuẩn bị sẵn sàng cho đất nước trong kỷ nguyên mới.

Nhà mất, việc không, kinh doanh đình đốn. Chi phí y tế thì quá tốn kém; chất lượng trường học khiến nhiều người thất vọng. Càng ngày càng có thêm bằng chứng cho thấy cách chúng ta sử dụng năng lượng càng khiến kẻ thù của chúng ta mạnh thêm trong lúc trái đất càng bị đe doạ thêm.

Đó là các chỉ dấu về cuộc khủng hoảng, tính theo dữ liệu và số liệu thống kê. Không đo đếm được cụ thể đến vậy, nhưng cũng không kém phần sâu sắc, đó là tâm trạng mất niềm tin trên toàn đất nước - một tâm trạng sợ hãi đeo đẳng rằng sự đi xuống của nước Mỹ là không thể tránh khỏi, và rằng thế hệ kế tiếp sẽ phải hạ bớt tầm nhìn.

Hôm nay, tôi xin nói với quý vị rằng các thách thức mà chúng ta đang đối diện là rất thật. Các thách thức đó rất nghiêm trọng và có nhiều. Các thách thức đó không thể xử lý được một cách dễ dàng hay trong một thời gian ngắn. Nhưng xin quý vị hãy biết rằng chúng sẽ được xử lý.

Ngày hôm nay, chúng ta tụ hội về đây bởi chúng ta đã lựa chọn hy vọng thay vì sợ hãi, cùng hướng tới một mục tiêu chung thay vì có xung đột và bất hòa.

Ngày hôm nay, chúng ta tới để tuyên bố chấm dứt những lời than vãn vụn vặt cùng những lời hứa hẹn dối trá, những lời tố cáo lẫn nhau cùng những lời nói giáo điều nhàm chán, những thứ đã bóp nghẹt nền chính trị của chúng ta quá nhiều.

Quốc gia dám chấp nhận rủi ro

Chúng ta vẫn là một quốc gia non trẻ, nhưng như kinh thánh nói, đã tới lúc bỏ sang một bên những điều nông nổi. Đã đến lúc tái xác nhận tinh thần kiên nhẫn của chúng ta, nhằm chọn lựa một lịch sử tốt đẹp hơn, nhằm hướng tới món quà quý giá, ý tưởng cao đẹp vốn được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác: Chúa trao cho mọi người quyền được bình đẳng, quyền được tự do, mọi người đều có quyền mưu cầu hạnh phúc.

Trong khi tái khẳng định sự vĩ đại của dân tộc chúng ta, chúng ta hiểu rằng sự vĩ đại đó không bao giờ là thứ được cho không. Chúng ta đã phải giành lấy nó. Hành trình của chúng ta đi cho tới nay chưa bao giờ là một trong những con đường đi tắt hoặc một cái gì đó dễ dàng hơn. Đó không phải là con đường cho những người nhút nhát, cho những người hay ưa thích sự nhàn tản hơn là lao động, hay cho những người chỉ tìm kiếm những thú vui của sự giàu sang và nổi tiếng. Thay vào đó, chính những người dám chấp nhận hiểm nguy, những người lao động, những người làm ra các sản vật – mà một vài trong số họ là những người nổi tiếng nhưng thông thường hơn là những người đàn ông và đàn bà vô danh trong những lao động của họ - là những người đã đưa chúng ta vượt qua con đường dài đầy khó khăn gập ghềnh và dẫn chúng ta tới sự thịnh vượng và tự do.

Vì chúng ta, họ đã phải bươn chải khắp các đại dương mà trong tay chỉ có chút ít tư trang, của cải để mưu cầu một cuộc đời mới.

Vì chúng ta, họ đã phải vất vả lao động ở những công xưởng hà khắc và phải cất công định cư ở miền Tây; đã phải chịu đựng những trận đòn roi da và cấy cầy trên nền đất cứng.

Vì chúng ta, họ đã chiến đấu và hy sinh ở những nơi như Concord và Gettysburg, Normandy và Khe Sanh.

Dấu ấn Mỹ

Hết lần này đến lần khác, những người đàn ông và đàn bà này đã tranh đấu, hy sinh và làm việc tới tận khi đôi bàn tay của họ trai sạm để chúng ta có thể có một cuộc sống tốt đẹp hơn, Họ đã nhìn thấy nước Mỹ lớn hơn tất cả những tham vọng cá nhân, lớn hơn tất cả những khác biệt về sự sinh thành, của cải và phe phái của chúng ta gộp lại.

Đây là hành trình chúng ta tiếp tục ngày hôm nay. Chúng ta vẫn là quốc gia thịnh vượng nhất, mạnh nhất trên trái đất. Các công nhân của chúng ta không hề làm việc kém hiệu quả hơn thời điểm cuộc khủng hoảng này bắt đầu. Trí óc của chúng ta không hề kém sáng tạo, hàng hoá và dịch vụ của chúng ta không hề kém cần thiết hơn tuần trước, tháng trước hay năm ngoái. Năng lực của chúng ta vẫn không hề bị sút giảm. Nhưng thời của sự bảo vệ những lợi ích hẹp hòi và lảng tránh những quyết định không mấy thú vị của chúng ta - thời đó chắc chắn đã trôi qua.

Bắt đầu ngày hôm nay, chúng ta phải tự mình đứng dậy, tự phủi bụi và bắt đầu trở lại công việc tái lập nước Mỹ. Bởi vì ở bất cứ nơi đâu chúng ta nhìn vào, chúng ta sẽ thấy có việc phải làm. Tình trạng kinh tế hiện nay đang kêu gọi chúng ta hành động, can đảm và mau lẹ, và chúng ta sẽ hành động – không chỉ để tạo ra những việc làm mới, mà còn để đặt một nền móng mới cho sự tăng trưởng. Chúng ta sẽ xây dựng cầu, đường, các lưới điện và đường dây kỹ thuật số để cung cấp cho thương mại và kết nối chúng ta lại với nhau. Chúng ta sẽ khôi phục khoa học ở vị trí đúng đắn của nó, sẽ sử dụng các điều kỳ diệu của công nghệ để nâng cao chất lượng chăm sóc y tế và hạ giá thành của nó. Chúng ta sẽ khai thác năng lượng từ mặt trời, từ gió và đất để cung cấp nhiên liệu cho xe hơi và vận hành các nhà máy của chúng ta. Và chúng ta sẽ chuyển các trường học, trường học phổ thông và đại học để đáp ứng các nhu cầu của một thời đại mới. Tất cả điều này chúng ta có thể làm. Tất cả những điều này, chúng ta sẽ làm.

Khôi phục niềm tin

Vào lúc này, đang có những người đặt ra các câu hỏi trước các tham vọng của chúng ta - những người này cho rằng hệ thống của chúng ta không thể kham nổi quá nhiều các kế hoạch. Trí nhớ của họ quá ngắn. Bởi vì họ đã quên rằng đất nước này đã làm được điều đó; điều mà những con người tự do, nam cũng như nữ, có thể đạt được khi trí tưởng tượng của mọi người được hòa trong một mục đích chung, điều cần thiết cho sự can đảm.

Điều mà những người hoài nghi không thể hiểu là mặt đất đang chuyển dịch dưới chân họ - là những luận điểm chính trị cũ kỹ vốn làm héo mòn chúng ta lâu nay, không còn có thể áp dụng được nữa. Câu hỏi chúng ta đặt ra hôm nay không phải là liệu chính phủ của chúng ta quá lớn hay quá nhỏ, nhưng mà là liệu nó có vận hành được hay không - liệu nó có thể giúp cho các gia đình tìm kiếm được việc làm với một đồng lương tử tế, một sự chăm sóc y tế mà họ có thể chi trả được hay tìm kiếm được một hưu bổng xứng đáng. Ở đâu mà câu trả lời là được, chúng ta dự kiến sẽ tiến tới. Ở đâu mà câu trả lời là không, các chương trình sẽ dừng lại.

Và ai trong số chúng ta đang quản lý những đồng đô-la công cộng sẽ phải thận trọng tính toán - để chi tiêu một cách khôn ngoan, phải thay đổi những thói quen xấu và phải làm công việc của chúng ta dưới thanh thiên bạch nhật – vì chỉ khi đó chúng ta mới có thể khôi phục được lòng tin hết sức quan trọng giữa người dân và chính phủ của họ.

Cũng không phải đó là câu hỏi đặt ra trước chúng ta rằng liệu thị trường là một lực lượng lành mạnh hay không. Sức mạnh của thị trường nhằm sản xuất ra của cải và mở rộng tự do là không gì sánh nổi, nhưng cuộc khủng hoảng này nhắc nhở chúng ta rằng nếu không có một con mắt thận trọng, thị trường có thể xoay chuyển và đi ra khỏi vòng kiểm soát - một quốc gia không thể thịnh vượng lâu dài khi nó chỉ tạo thuận lợi cho những người giàu có. Thành công của nền kinh tế của chúng ta đã luôn luôn dựa trên không chỉ quy mô của tổng sản phẩm quốc nội của chúng ta, mà còn dựa trên tầm vóc của sự thịnh vượng của chúng ta; dựa trên khả năng mở rộng cơ hội cho tất cả những người thiện ý, sẵn lòng – không nằm ngoài tính từ thiện, mà còn bởi vì đó là con đường chắc chắn nhất đưa tới lợi ích chung của chúng ta.

Sẵn sàng dẫn dắt

Đối với công cuộc quốc phòng, chúng ta bác bỏ sự lựa chọn giữa an toàn và các lý tưởng của chúng ta. Những bậc cha ông khai quốc của chúng ta, vốn đã từng phải đương đầu với những hiểm nguy mà chúng ta hiếm khi có thể hình dung được, đã soạn thảo ra một bản hiến chương đảm bảo pháp trị và các quyền con người, một bản hiến chương đóng góp bằng máu của nhiều thế hệ. Những lý tưởng này vẫn tiếp tục thắp sáng trên thế giới, và chúng ta sẽ không từ bỏ chúng vì những điều không thích hợp.

Và do đó đối với tất cả các dân tộc và chính phủ khác đang theo dõi chúng ta hôm nay, từ các thủ đô lớn nhất tới ngôi làng nhỏ nơi cha tôi ra đời: quý vị biết rằng nước Mỹ là bạn bè với từng quốc gia, từng cá nhân dù là nam hay nữ, từng đứa trẻ, đang tìm kiếm tương lai hoà bình và phẩm giá, và chúng ta sẵn sàng để đi đầu một lần nữa.

Hãy nhớ rằng thế hệ cha anh chúng ta đã hạ gục chủ nghĩa phát xít và chủ nghĩa cộng sản, không chỉ bằng tên lửa và xe tăng mà bằng những liên minh vững chắc và bằng niềm tin bền bỉ. Lớp cha anh hiểu rằng chỉ sức mạnh không thôi sẽ không thể bảo vệ nổi chúng ta, và nó cũng không cho phép chúng ta làm những gì mình muốn. Các thế hệ trước hiểu rằng sức mạnh của chúng ta lớn mạnh dần là nhờ chúng ta đã sử dụng nó một cách cẩn trọng. Nền an ninh của chúng ta được xây dựng từ sự chính danh, từ sự gương mẫu, từ sự khiêm nhường và sự biết kiềm chế của chúng ta.

Chúng ta là những người gìn giữ di sản này. Được dẫn dắt bởi những nguyên tắc cơ bản này, một lần nữa chúng ta sẽ đương đầu được với các đe doạ mới, là các đe doạ cần được đối phó bằng những nỗ lực to lớn hơn - thậm chí là cả sự hợp tác to lớn hơn cùng và sự thông hiểu hơn giữa các quốc gia. Chúng ta sẽ bắt đầu chuyển giao một cách có trách nhiệm đất nước Iraq cho người dân Iraq, và sẽ vượt lên giành giật hòa bình vốn khó giữ tại Afghanistan. Cùng với bạn cũ thù xưa, chúng ta sẽ làm việc không ngừng nhằm giảm bớt đe dọa hạt nhân và đảo ngược tiến trình ấm nóng toàn cầu. Chúng ta sẽ không xin lỗi vì cách sống của chúng ta và không do dự khi bảo vệ lối sống này. Đối với những kẻ muốn đạt mục tiêu bằng cách khủng bố và giết người vô tội, thì các người hãy nghe đây: tinh thần của chúng ta mạnh hơn của các người, các người không thể bẻ gãy ý chí của chúng ta, các người không thể tồn tại lâu chúng ta, và chúng ta sẽ đánh bại các người.

Kỷ nguyên hoà bình

Chúng ta biết rằng di sản của chúng ta là sức mạnh chứ không phải là sự yếu đuối. Chúng ta là một quốc gia của người Thiên Chúa Giáo và người Hồi Giáo, người Do Thái giáo và người Ấn giáo, và của cả những người không tôn giáo. Chúng ta được hình thành bởi các ngôn ngữ và văn hóa hội về từ khắp nơi trên trái đất. Từng đã trải qua vị đắng của nội chiến và tệ phân biệt màu da, từng trỗi dậy từ thời kỳ đen tối đó để trở nên mạnh mẽ hơn, đoàn kết hơn, chúng ta tin rằng rồi sẽ đến ngày nỗi thù nghịch cũng qua đi, làn phân ranh giữa các bộ tộc sẽ không còn; khi thế giới này trở nên nhỏ bé hơn, lòng nhân hậu sẽ ngự trị và Hoa Kỳ sẽ đóng vai trò mở ra một kỷ nguyên mới, hoà bình.

Đối với thế giới Hồi giáo, chúng ta tìm hướng đi tới mới, dựa trên lợi ích chung và sự tôn trọng lẫn nhau. Đối với các nhà lãnh đạo đang muốn gieo rắc xung đột hay đổ lỗi cho phương Tây gây ra những tệ nạn trong xã hội của họ - quý vị hãy hiểu rằng người dân sẽ đánh giá dựa trên những gì quý vị xây chứ không phải những gì quý vị phá. Đối với những người bám lấy quyền lực nhờ tham nhũng, dối trá và bịt miệng tiếng nói đối lập, hãy biết rằng quý vị đang đi ngược lịch sử, nhưng chúng tôi sẽ chìa tay ra nếu quý vị biết từ bỏ nắm đấm.

Đối với các quốc gia nghèo khó, chúng tôi cam kết sẽ sánh vai cùng quý vị để giúp các trang trại xanh tươi, để dòng nước sạch được tuôn trào, để nuôi dưỡng những sinh linh đói khát. Và đối với những quốc gia được hưởng sự đầy đủ như chúng ta, chúng ta nói với họ rằng chúng ta không thể tiếp tục thờ ơ với những nỗi thống khổ phía bên ngoài biên giới, cũng không thể tiếp tục sử dụng tài nguyên thế giới mà không quan tâm gì tới những ảnh hưởng kéo theo. Thế giới đã thay đổi và chúng ta phải thay đổi theo.

'Nghĩa vụ'

Khi chúng ta cân nhắc con đường phía trước, chúng ta tưởng nhớ với lòng biết ơn khiêm nhường trước những người Mỹ dũng cảm, vào chính lúc này đây, đang tuần tra các sa mạc, rặng núi xa xôi. Họ có cái để nói với chúng ta, giống như những anh hùng gục ngã tại Arlington đã thì thầm từ bao thời đại. Chúng ta vinh danh họ không chỉ vì họ là những người bảo vệ tự do của chúng ta, mà còn vì họ hiện thân cho tinh thần phục vụ; sẵn sàng tìm ý nghĩa trong những điều lớn hơn bản thân họ. Và chính trong khoảnh khắc này - một khoảnh khắc sẽ định hình cả một thế hệ, chính tinh thần này phải hiện hữu trong tất cả chúng ta.

Vì cho dù chính phủ có thể làm gì và phải làm gì, quốc gia này chung cuộc là nhờ vào niềm tin và quyết tâm của nhân dân Mỹ. Đó là sự tử tế đùm bọc người xa lạ khi những con đê bị vỡ, là sự vị tha của những công nhân thà làm bớt giờ chứ không để bạn mình mất việc, chính chúng sẽ đưa ta qua những giờ đen tối nhất. Chính là sự dũng cảm của nhân viên chữa cháy băng qua cầu thang đầy khói, chính là bậc cha mẹ sẵn lòng chăm sóc con, mà quyết định số phận của chúng ta.

Các thách thức của chúng ta có thể là mới mẻ. Các công cụ mà chúng ta dùng để đối phó có thể là mới mẻ. Nhưng các giá trị đã dẫn đến thành công của chúng ta - sự trung thực và chăm chỉ, dũng cảm và công bằng, khoan dung và tò mò, trung thành và lòng yêu nước - những điều này là cũ. Những điều này là có thật. Chúng đã là lực đẩy âm thầm cho tiến bộ xuyên suốt lịch sử của chúng ta. Điều đang đòi hỏi chúng ta là quay về với những sự thật đó.

Điều đòi hỏi chúng ta lúc này đây là một kỷ nguyên mới của trách nhiệm, một sự thừa nhận của từng người Mỹ rằng chúng ta có nghĩa vụ với chính bản thân, quốc gia, và thế giới; những nghĩa vụ mà chúng ta không phải miễn cưỡng chấp nhận mà sẵn sàng nắm lấy, với hiểu biết chắc chắn rằng không có điều gì làm tinh thần thỏa mãn, phản ảnh tư cách của chúng ta cho bằng cống hiến trọn vẹn cho một sự nghiệp khó khăn.

'Món quà của tự do'

Đây là giá và sự hứa hẹn của quyền công dân.

Đây là nguồn gốc của niềm tự tin, sự hiểu biết rằng Thượng Đế trông cậy vào chúng ta để định hình một định mệnh chưa chắc chắn.

Đây là ý nghĩa của tự do và tôn giáo của chúng ta - là vì sao mọi người, nam, nữ, trẻ em thuộc mọi chủng tộc và tín ngưỡng có thể cùng nhau chào đón tại quảng trường quốc gia vĩ đại này và vì sao một người có cha cách đây gần 60 năm có thể không được phục vụ tại một nhà hàng địa phương mà nay đứng trước mặt quý vị để đọc lời thề thiêng liêng nhất.

Vậy chúng ta hãy đánh dấu ngày này bằng cách nhớ lại chúng ta là ai và chúng ta đã đi xa thế nào.

Vào năm Hoa Kỳ ra đời, trong những tháng lạnh nhất, một nhóm nhỏ những người yêu nước chụm lại bên nhau bên cạnh đống lửa gần tàn trên bờ dòng sông băng giá. Thủ đô đã bị bỏ lại. Kẻ thù đang tiến tới. Tuyết loang lỗ vết máu. Vào thời điểm khi kết quả cuộc cách mạng rơi vào hồ nghi, vị cha già của quốc gia ra lệnh đọc cho mọi người những lời này:

"Hãy nói cho thế giới tương lai... rằng trong mùa đông giá lạnh nhất, khi chỉ còn lại hy vọng và nghị lực... thì thành phố và đất nước, lo lắng trước mối nguy hiểm chung, đã tiến lên để đối đầu."

Nước Mỹ ơi. Giữa những nguy hiểm chung, trong mùa đông gian khó của chúng ta, hãy nhớ những lời bất tử này. Với hy vọng và nghị lực, chúng ta hãy một lần nữa can đảm vượt qua dòng nước băng giá và chịu đựng bất cứ cơn bão nào sẽ đến. Hãy để con cháu chúng ta nhắc lại rằng khi chúng ta bị thử thách, chúng ta đã chối từ không để cuộc hành trình phải ngừng lại, rằng chúng ta không quay lui hay ngập ngừng, và với con mắt chăm chú nhìn vào chân trời và với ân phước của Thượng Đế ban cho, chúng ta mang theo món quà của tự do và chuyền lại bình an cho các thế hệ sau.

Cảm ơn quý vị. Thượng đế ban phước lành cho quý vị. Và Thượng đế ban phước lành cho nước Mỹ.

Toàn văn bài phát biểu nhậm chức của Obama (bị cắt xén!)

(Theo Vietnamnet: http://vietnamnet.vn/thegioi/2009/01/824988/)

Vào lúc khoảng 12h06 (giờ Washington) ngày 20/1, Barack Obama đã chính thức tuyên thệ nhậm chức Tổng thống thứ 44 của Mỹ, cam kết sẽ bắt đầu lại công việc chấn hưng đất nước. Dưới đây, VietNamNet xin giới thiệu toàn văn bài phát biểu tuyên thệ nhậm chức của ông chủ da màu đầu tiên trong lịch sử nước Mỹ.

Thưa nhân dân của tôi,

Tôi đứng đây ngày hôm nay, nhỏ bé trước trọng trách phía trước chúng ta, biết ơn vì sự tín nhiệm các bạn đã trao tặng, lưu tâm tới những hy sinh của ông cha chúng ta. Tôi đã cảm ơn Tổng thống Bush vì sự cống hiến của ông cho đất nước của chúng ta cũng như sự hào phóng và hợp tác mà ông đã thể hiện trong suốt quá trình chuyển giao (quyền lực) này.

Tính tới thời điểm hiện tại, 44 người Mỹ đã đọc lời tuyên thệ nhậm chức. Các lời lẽ đã được xướng lên trong những đợt thủy triều dâng trào của sự thịnh vượng và mặt nước tĩnh lặng của hoà bình. Tuy nhiên, thường thì lời tuyên thệ nhậm chức được thực hiện trong lúc những đám mây quần tụ và các cơn bão điên cuồng. Vào những giây phút này, nước Mỹ đang tiến bước không chỉ bởi vì kĩ năng và tầm nhìn của những người cầm quyền cao nhất mà vì chúng ta, người dân, vẫn trung thành với các tư tưởng của các bậc tiền bối và tôn trọng các văn bản đã ban hành của chúng ta.

Mọi việc đã diễn ra như vậy. Và chúng sẽ phải như vậy trong thế hệ này của người dân Mỹ.

Hiện ai cũng hiểu rõ việc chúng ta đang ở giữa khủng hoảng. Đất nước chúng ta đang trong cuộc chiến chống một mạng lưới bạo lực và sự hận thù rộng lớn. Nền kinh tế của chúng ta đặc biệt bị suy yếu, một hậu quả của sự tham lam và vô trách nhiệm của một số đối tượng, nhưng cũng là thất bại của toàn thể chúng ta trong việc đưa ra những quyết định khó khăn và chuẩn bị cho đất nước bước vào một thời kỳ mới. Rất nhiều gia đình mất nhà ở; việc làm bị cắt giảm; các doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động. Chăm sóc y tế của chúng ta quá đắt đỏ; các trường học của chúng ta không đáp ứng được mong đợi của nhiều người và mỗi ngày lại xuất hiện thêm những bằng chứng cho thấy các cách thức sử dụng năng lượng của chúng ta đang tăng cường sức mạnh cho các kẻ thù của chúng ta và đe doạ hành tinh này.

Đây là những biểu hiện của khủng hoảng, theo các dữ liệu và con số tính toán. Thiếu tính toán nhưng không thiếu đào sâu suy nghĩ là sự đào bới niềm tin khắp mảnh đất của chúng ta - một nỗi sợ hãi dai dẳng rằng sự suy sụp của nước Mỹ là không thể tránh khỏi và rằng thế hệ tiếp theo sẽ phải hạ thấp các tầm ngắm của họ.

Hôm nay, tôi nói với các bạn rằng những thách thức mà chúng ta đang đối mặt là có thực. Chúng rất nghiêm trọng và rất nhiều. Chúng sẽ không dễ gì được giải quyết hoặc kéo dài trong một thời gian ngắn. Tuy nhiên, nước Mỹ nên biết điều này - các thách thức đó sẽ được giải quyết.

Ngày hôm nay, chúng ta có mặt ở đây vì chúng ta đã chọn hy vọng thay vì sợ hãi, thống nhất các mục đích thay vì xung đột và bất hoà.

Ngày hôm nay, chúng ta tới đây để tuyên bố chấm dứt những lời than phiền vụn vặt và những lời cam kết giả dối, các lời buộc tội lẫn nhau và niềm tin rạn nứt và chấm dứt việc đời sống chính trị của chúng ta đã bị bóp nghẹt quá lâu rồi.

Chúng ta vẫn là một đất nước non trẻ, nhưng theo Kinh thánh, thời gian đã tới để loại bỏ những thứ ngây ngô. Thời gian đã tới để tái xác nhận một lần nữa tinh thần nhẫn nại của chúng ta; để lựa chọn cho chúng ta lịch sử tốt đẹp hơn; chuyển giao món quà quý giá đó, ý tưởng đáng khâm phục đó, vốn được truyền lại từ thế hệ này sang thế hệ khác: Lời cam kết của Chúa rằng tất cả đều bình đẳng, tất cả đều tự do và tất cả đều xứng đáng có cơ hội được theo đuổi tiêu chuẩn toàn diện của họ về hạnh phúc.

Trong khi tái khẳng định sự vĩ đại của đất nước chúng ta, chúng ta hiểu được rằng sự vĩ đại không bao giờ là cái có sẵn. Đó là thứ phải giành được. Cuộc hành trình của chúng ta chưa bao giờ là một trong những chuyến đi rút ngắn hay được định đoạt vì cái kém cỏi hơn. Đó không phải là con đường dành cho những người nhút nhát - cho những ai thích sự nhàn rỗi hơn công việc hay chỉ tìm kiếm niềm vui thích của sự giàu có và nổi tiếng. Nói đúng hơn, đó là con đường dành cho những người chấp nhận mạo hiểm, những người thực hiện, sáng tạo ra mọi thứ - một số người nổi danh nhưng đa phần họ là những người phụ nữ, nam giới vô danh trong công việc của mình, những người đã đưa chúng ta tiến bước trên con đường dài, gập ghềnh để tới sự thịnh vượng và tự do.

Vì chúng ta, họ đã gói ghém những hành trang trải nghiệm ít ỏi của mình và vượt qua các đại dương để tìm kiếm một cuộc sống mới.

Đối với chúng ta, họ đã làm việc cặm cụi trong các công xưởng bóc lột công nhân tàn tệ và định cư ở phương Tây; chịu đựng đòn roi và cày những mảnh đất cằn cỗi.

Đối với chúng ta, họ đã chiến đấu và hy sinh; ở những nơi như Concord và Gettysburg; Normandy...

Thời gian và một lần nữa những người phụ nữ và nam giới này đã đấu tranh, hy sinh và làm việc cho tới khi tay họ chai lại để chúng ta có thể có một cuộc sống tốt đẹp hơn. Họ đã nhận thấy nước Mỹ to lớn hơn một tập hợp của những tham vọng cá nhân của chúng ta; vĩ đại hơn tất cả những khác biệt về dòng dõi hay của cải hoặc bè phái.

Đây là cuộc hành trình mà chúng ta sẽ tiếp tục ngày hôm nay. Chúng ta vẫn là một cường quốc thịnh vượng và hùng mạnh nhất trên trái đất. Các công nhân của chúng ta không kém năng suất hơn khi cuộc khủng hoảng đã bắt đầu. Đầu óc chúng ta không kém sáng tạo hơn. Nhu cầu về hàng hoá và dịch vụ của chúng ta không kém hơn tuần trước, tháng trước hay năm trước. Khả năng của chúng ta vẫn chưa bị suy giảm. Tuy nhiên, thời mà chúng ta vẫn khư khư ý kiến bảo vệ các lợi ích hẹp hòi và trì hoãn các quyết định khó khăn chắc hắn đã qua. Bắt đầu từ hôm nay, chúng ta phải vực dậy bản thân, cải thiện mình và bắt đầu lại công việc tái thiết nước Mỹ.

Ở bất cứ đâu mà chúng ta hướng tới sẽ có việc cần phải hoàn thành. Tình trạng kinh tế đòi hỏi hành động, táo bạo và mau lẹ. Và chúng ta phải hành động - không chỉ tạo ra các việc làm mới mà đề ra một cơ sở mới cho sự tăng trưởng. Chúng ta sẽ xây dựng các con đường, các cây cầu, mạng lưới điện và các tuyến dữ liệu mã hoá giúp ích cho nền thương mại của chúng ta và gắn kết chúng ta với nhau. Chúng ta sẽ khôi phục khoa học về đúng chỗ của nó cũng như tận dụng sự kỳ diệu của công nghệ để cải thiện chất lượng chăm sóc y tế và hạ giá thành dịch vụ này. Chúng ta sẽ khai thác mặt trời, gió và đất đai để tiếp nhiên liệu cho các xe hơi của chúng ta và vận hành các nhà máy. Và chúng ta sẽ cải tổ các trường phổ thông, cao đẳng và đại học của chúng ta nhằm đáp ứng những yêu cầu của một thời kỳ mới. Tất cả những điều này chúng ta có thể làm được. Tất cả những điều này chúng ta sẽ làm.

Hiện tại, có một số người đang hoài nghi về mức độ các tham vọng của chúng ta. Họ đề xuất rằng hệ thống của chúng ta sẽ không thể chống chịu được quá nhiều kế hoạch lớn. Khả năng ghi nhớ của họ thật hạn hẹn vì họ đã quên những gì mà đất nước này đã làm được; những gì mà những người phụ nữ và nam giới tự do có thể giành được khi khả năng sáng tạo được hoà hợp vì mục đích chung; và hoàn cảnh bắt buộc phải có dũng khí.

Điều mà những người hoài nghi không hiểu là đất đã chuyển dời dưới chân họ và rằng những luận điểm chính trị cũ rích từng huỷ hoại chúng ta suốt một thời gian dài không còn hiệu quả nữa. Câu hỏi chúng ta đặt ra ngày hôm nay không phải là liệu chính phủ của chúng ta quá lớn hay quá nhỏ mà là liệu nó có hoạt động hiệu quả, liệu nó có thể giúp đỡ các gia đình tìm được việc với thu nhập hợp lí, sự quan tâm mà họ có thể được hưởng và sự nghỉ ngơi đáng đề cao. Nếu câu trả lời là có, thì chúng ta dự định tiến bước. Nếu câu trả lời là không thì mọi chương trình sẽ chấm dứt. Và những ai trong chúng ta, những người nắm quyền quản lý các đồng đô la của công chúng sẽ phải chịu trách nhiệm - chi tiêu khôn ngoan, thay đổi những thói quen xấu và làm công việc của mình trong sự minh bạch - bởi vì chỉ khi đó chúng ta mới có thể khôi phục được sự tin tưởng thiết yếu giữa người dân và chính phủ của họ.

Câu hỏi phía trước chúng ta hiện nay cũng không phải là: liệu thị trường là một lực lượng vĩnh viễn hay tạm thời. Sức mạnh tạo ra của cải và phát triển sự tự do của nó là không thể sánh kịp nhưng cuộc khủng hoảng đã gợi nhắc chúng ta rằng không có một cái nhìn thận trọng thì thị trường có thể vọt ra ngoài tầm kiểm soát - và rằng một đất nước không thể thịnh vượng dài lâu khi họ chỉ chú trọng đến những thuận lợi. Sự thành công của nền kinh tế chúng ta luôn luôn không những phụ thuộc vào quy mô tổng sản phẩm quốc nội (GDP) mà còn cả phạm vi của sự thịnh vượng; vào khả năng mở rộng cơ hội tới mọi con người quyết tâm - không nằm ngoài lòng nhân hậu mà bởi vì đó là con đường chắc chắn nhất hướng tới sự tốt đẹp chung cho tất cả chúng ta.

Vì lợi ích chung, chúng ta phản đối việc đánh đổi việc giữ gìn sự an toàn với lý tưởng của chúng ta. Ông cha ta đã đối mặt với khó khăn vất vả và hy sinh để thảo nên và giữ gìn những quy định về quyền con người, đã có những chương sử viết bằng máu của biết bao thế hệ. Những lý tưởng đó vẫn soi sáng thế giới hôm nay, và chúng ta không hy sinh chúng. Và xin gửi lời tới nhân dân và chính phủ các nước đang dõi xem buổi lễ hôm nay, từ những thủ đô tráng lệ nhất cho tới những thôn làng nhỏ nhất như nơi cha tôi đã sinh ra, rằng xin hãy biết nước Mỹ là bạn của mỗi quốc gia, mỗi người đàn ông, đàn bà, trẻ thơ đang tìm kiếm hoà bình và danh dự. Và một lần nữa, chúng ta đã sẵn sàng đi đầu trong sự nghiệp chung đó.

Hãy nhớ rằng các thế hệ gần đây đã đối mặt với phát xít... không chỉ bằng tên lửa và xe tăng, mà bằng cả sự đoàn kết keo sơn và bằng những lý lẽ chắc chắn, vững vàng. Những thế hệ tiền bối đó đã hiểu rằng, chúng ta không thể chỉ dùng sức mạnh để bảo vệ mình, hay tự cho phép mình làm như vậy. Thay vào đó, họ đã hiểu rằng sức mạnh của chúng ta phát sinh từ việc sử dụng hợp lý sức mạnh sẵn có một cách phù hợp nhất; an ninh của chúng ta có được từ chính nghĩa, chẳng hạn, từ sự khiêm nhường và kiềm chế thực sự.

Chúng ta là người gìn giữ những huyền thoại đó. Với những nguyên tắc này làm kim chỉ nam, một lần nữa, chúng ta có thể có được sự hợp tác và hiểu biết lẫn nhau tốt hơn từ các quốc gia khác nhau, một khi phải đối mặt với những nguy cơ lớn hơn trong tương lai. Chúng ta sẽ chuyển giao Iraq một cách có trách nhiệm cho nhân dân Iraq, và củng cố nền hoà bình ở Afghanistan.

Xin nói với cả các bạn xưa lẫn những kẻ thù cũ, rằng chúng tôi sẽ phải làm việc không mệt mỏi để có thể giảm thiểu các nguy cơ hạt nhân và đẩy lùi bóng ma của việc ấm lên toàn cầu. Chúng tôi sẽ không xin lỗi về cách sống của mình, cũng như không do dự trong việc bảo vệ cho mình, và với những kẻ muốn thực hiện mưu đồ khủng bổ và giết hại dân thường vô tội, xin cảnh báo rằng tinh thần của chúng tôi giờ thậm chí còn mạnh mẽ hơn và không thể bị phá vỡ, các người sẽ không thể tồn tại lâu và chúng tôi sẽ đánh bại các người.

Và chúng ta hiểu rõ di sản của mình là sức mạnh lớn chứ không phải là điểm yếu. Chúng ta là một đất nước của người Thiên Chúa Giáo cũng như Hồi Giáo, của người Do Thái cũng như người Hindus — và của người không theo đạo. Chúng ta được định hình từ mọi thứ ngôn ngữ và văn hoá, vẽ từ những nét khác nhau từ khắp trái đất này; và vì chúng ta cũng đã nếm trải vị đắng của nội chiến đau thương, và cũng đã nổi lên từ đêm đen đó bằng sức mạnh của tình đoàn kết, chúng ta không thể không tin rằng, những định kiến xưa cũ rồi sẽ biến mất hoàn toàn; những khoảng cách về dòng giống sẽ được giải quyết hoàn toàn; và khi đó thế giới sẽ trở nên gần gũi hơn, nhân quyền của chúng ta sẽ tự sáng lên; và Mỹ phải đóng vai trò thúc đẩy một kỷ nguyên mới của hoà bình.

Và xin gửi lời tới thế giới Hồi Giáo rằng, chúng tôi đang tìm kiếm một hướng đi mới tới phía trước, dựa trên lợi ích chung và sự tôn trọng lẫn nhau. Xin nói với những nhà lãnh đạo trên trái đất đang kiếm cách gây hiềm khích, hoặc đang đổ lỗi những yếu kém của mình là do phương Tây gây ra, xin hãy biết rằng nhân dân của các vị sẽ phán xét các vị dựa trên những gì các vị đang dựng xây chứ không phải đang phá huỷ. Xin nói với những ai đang leo lên quyền lực bằng con đường tham nhũng và trấn áp sự bất đồng chính kiến, rằng các vị đang đi sai con đường lịch sử, song chúng tôi sẽ dang tay nếu các vị tự giải phóng cho mình đầu tiên.

Và xin gửi lời tới nhân dân các nước nghèo, rằng chúng tôi cam kết sẽ đứng cùng các bạn để giúp mùa màng các bạn bội thu, để khơi thông những dòng nước mát lành, để nuôi dưỡng những cơ thể đang héo hon và để bồi đắp tinh thần cho những con người đang khao khát nhận thức. Và xin nói với những quốc gia giống quốc gia chúng tôi, những quốc gia đang được hưởng thụ khá nhiều, rằng đã đến lúc chúng ta không nên để cho những người dân khác phải sống trong chịu đựng dù ở ngoài biên giới chúng ta, và đã đến lúc chúng ta không thể tiêu thụ tài nguyên của thế giới mà không để ý tới những hậu quả của nó với xung quanh. Để có một thế giới đổi thay, chúng ta phải thay đổi cùng nó.

Trong khi chúng ta đang xem xét cho đoạn đường phía trước, hãy dành những tình cảm biết ơn và kính trọng cho những người Mỹ dũng cảm mà vào giờ phút này đây, đang bồng súng đi tuần trên cát nóng sa mạc hay trên những ngọn núi cao ngoài xa. Họ có nhiều điều để nói với chúng ta hôm nay, hay những người đã nằm xuống trong tiếng nguyện cầu ở Arlington nhiều thế hệ nay. Chúng ta tôn vinh họ không chỉ vì họ là những người gác canh cho tự do của chúng ta, mà còn vì họ là biểu trưng cho tinh thần phục vụ nhân dân, cho sự sẵn sàng cống hiến vì một mục tiêu cao cả hơn cả lo cho bản thân mình. Và điều đó, ngay trong lúc này đây - thời khắc quyết định một thế hệ mới – đó chính là tinh thần mà chúng ta thừa hưởng.

Bất cứ những gì chính phủ có thể làm và buộc phải làm, nhất thiết phải trung thành và kiên định với nhân dân, nền tảng của đất nước này. Lòng tốt sẽ được ghi nhận khi cứu giúp người lạ khi có một con đê bị vỡ. Lòng vị tha sẽ được ghi nhận khi những người công nhân thà giảm giờ làm của mình còn hơn nhìn thấy đồng nghiệp phải mất việc trong những thời khắc khó khăn nhất. Lòng dũng cảm sẽ được ghi nhận khi ngwời lính cứu hoả tìm đường leo lên cầu thang dày đặc khói hay thậm chí chỉ là việc bố mẹ nuôi dưỡng con cái mình. Những đức tính đó tạo nên số phận của chúng ta.

Thách thức của chúng ta có thể sẽ phát sinh mới lạ. Công cụ đi kèm với những thách thức đó mà chúng ta phải đối mặt có thể cũng mới lạ. Song với những giá trị đã giúp tạo nên thành công của chúng ta – siêng năng, trung thực, dũng cảm, fair play, khoan dung, quan tâm chia sẻ, trung thành và ái quốc – thì những thách thức mới lạ ấy rồi cũng sẽ trở thành quá khứ. Những thách thức là có thực. Nó âm thầm xuyên suốt lịch sử của chúng ta. Đòi hỏi của quá khứ là phải tìm ra sự thật. Đòi hỏi của chúng ta ngày nay là một kỷ nguyên mới với đầy đủ trách nhiệm - một sự công nhận, đối với mọi người Mỹ, rằng chúng ta phải có trách nhiệm với chính bản thân mình, với đất nước và với thế giới, những trách nhiệm mà chúng ta không thể nhận bừa song lại phải đón lấy nó một cách vui vẻ, với lập trường vững chắc rằng không có gì thoả mãn tinh thần hơn, định nghĩa được tính cách chúng ta hơn là xả thân vì những trọng trách như vậy.

Thách thức đó là cái giá của những cam kết về quyền công dân.

Đó là khởi nguồn của niềm tin của chúng ta - niềm tin tưởng rằng Chúa Trời đã gọi tên chúng ta để kiến tạo nên vận mệnh chưa định sẵn.

Đây là ý nghĩa của tự do và hệ tư tưởng của chúng ta, là lý do mà mỗi người đàn ông, đàn bà, trẻ thơ của mọi sắc tộc có thể cùng tham gia hội họp cùng nhau tại địa điểm tráng lệ này, là lý do mà một người đàn ông mà nếu chưa đầy 60 năm trước không thể phục vụ ở một nhà hàng địa phương thì giờ đây lại có thể đang đứng đây để chuẩn bị tuyên thệ nhậm chức.

Vì vậy hãy cùng nhau ghi nhớ ngày này, để biết chúng ta là ai và chúng ta đã tiến xa tới đâu. Vào cái năm nước Mỹ được sinh ra, trong tháng lạnh giá nhất, một nhóm nhỏ những người yêu nước dồn lại trong tình cảnh lửa đang tắt lịm dần bên một dòng sông đã đóng băng. Thủ đô đã bị phong toả. Quân thù đang tiến tới. Tuyết trắng chan hoà cùng máu đỏ. Vào thời khắc mà cuộc cách mạng đang đứng trước thời khắc thử thách nhất, người cha của đất nước ta đã đọc những lời này với mọi người:

"Hãy để hậu thế nói với thế giới tương lai… rằng giữa sâu thẳm của mùa đông, khi mà không còn tồn tại gì ngoài hy vọng và nhân cách... rằng thành phố và đất nước của ta, đang đối mặt với một nguy hiểm chung, hãy tiến lên đối mặt với nó!"

Nước Mỹ, đang đối mặt với một nguy hiểm chung, vào thời khắc mùa đông khó khăn này, chúng ta hãy cùng nhớ lại những từ bất hủ đó. Với hy vọng và nhân cách, một lần nữa, chúng ta hãy dũng cảm đối mặt với tình thế đóng băng hiện nay, và bền gan cho dẫu bão tố nào có tới đi nữa. Hãy để cháu chắt của chúng ta được nghe chuyện rằng, khi chúng ta bị thử thách, chúng ta đã không bỏ dở hành trình, chúng ta không lui bước hay gục ngã; và với đôi mắt nhìn thẳng về chân trời phía trước cùng Chúa trời phù hộ trên cao, chúng ra tiếp tục dành lấy món quà tuyệt vời của tự do và giao nó cho các thế hệ tương lai. (T.B - H.Q (dịch)
 
Đức giáo hoàng gửi điện văn chúc mừng Tổng thống Obama
Phụng Nghi
14:57 21/01/2009
Vatican (CatholicCulture.org) - Đức giáo hoàng Bênêđictô XVI đã gửi một điện văn tới Tổng thống Hoa kỳ Barack Obama, bày tỏ những lời chúc tốt đẹp nhất trong lời cầu nguyện và thúc giục nhà lãnh đạo nước Mỹ “đề cao sự cảm thông, cộng tác và hòa bình giữa các dân tộc.” Đức thánh cha bày tỏ niềm hy vọng rằng xã hội Hoa kỳ sẽ tôn trọng phẩm giá của mọi con người, “nhất là người nghèo, người bị ruồng bỏ và những kẻ không có tiếng nói.”

Sau đây là toàn văn thông điệp của Đức thánh cha:

Nhân dịp ngài nhậm chức Tổng thông thứ 44 của Hiệp chủng quốc Hoa kỳ, tôi xin gửi đến ngài những lời chúc tốt đẹp và thành tâm, cùng với lời bảo đảm cầu nguyện để Thiên Chúa cao cả sẽ ban cho ngài sự khôn ngoan không chuyển đổi và sức mạnh khi thi hành những nhiệm vụ cao cả. Ước mong dưới quyền lãnh đạo của ngài, dân tộc Hoa kỳ tiếp tục tìm được, trong di sản tôn giáo và chính trị của mình, những giá trị tinh thần và những nguyên tắc luân lý đạo đức cần thiết để cùng cộng tác trong việc xây dựng một xã hội thực sự công bằng và tự do, ghi dấu bằng lòng tôn trọng phẩm giá, bình đẳng và quyền của mỗi phần tử, nhất là người nghèo, người bị ruồng bỏ, và những kẻ không có tiếng nói. Giữa lúc nhiều anh chị em chúng ta trên khắp thế giới mong mỏi được giải thoát khỏi tai ương gây ra do nghèo đói và bạo lực, tôi xin cầu nguyện để ngài được vững tâm đề cao sự thông cảm, cộng tác và hoà bình giữa các dân tộc, hầu cho tất cả được cùng chia sẻ trong bàn tiệc sự sống mà Thiên Chúa muốn dọn ra cho toàn thể gia đình nhân loại (Xem Isaia 25:6-7). Tôi vui lòng kêu cầu Chúa ban phước lành là niềm an vui cho ngài, gia đình ngài và toàn thể dân tộc Hoa kỳ.
 
Cầu nguyện trong gia đình làm biến đổi đời sống
John Bosco Nguyễn Hoàng Thương
16:08 21/01/2009
Vatican (VIS) - Vào hồi 8 giờ tối hôm 17/01/2009 (giờ Mêxicô), một đoạn video sứ điệp của Đức Thánh Cha đã được trình chiếu cho các tham dự viên Cuộc Họp Mặt Thế Giới các Gia Đình thần thứ 6. Sự kiện này được tổ chức từ ngày 14 đến 18/01, là thời điểm của lễ nghi và chứng tá với sự hiện diện của các gia đình Kitô giáo trên khắp thế giới, được diễn ra tại Vương Cung Thánh Đường Đức Bà Guadalupe, Mexico với chủ đề: “Gia đình, Nhà Giáo dục các giá trị Nhân bản và Kitô giáo”

Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI, trong sứ điệp của mình cho hay rằng Chủ đề nhắc nhở chúng ta rằng: "Môi trường gia đình là trường học về đời sống nhân bản và Kitô giáo đối với tất cả các thành viên mang lại thành quả ích lợi cho con người, Giáo Hội và xã hội. Thực thế, gia đình được kêu gọi thực thi tình yêu thương lẫn nhau và lòng chân thật, tôn trọng và công lý, trung thành và hợp tác, phục vụ và sẵn sàng giúp đỡ tha nhân, nhất là người cô thế. Gia đình Kitô giáo... phải thấm nhuần sự hiện diện của Thiên Chúa, đặt các sự kiện hằng ngày vào tay Chúa và kêu cầu Ngài giúp làm trọn sứ mạng quan trọng của gia đình".

Đức Thánh Cha cho hay: "Đối với mục đích tối hậu này, thật hết sức quan trọng cho việc cầu nguyện trong gia đình vào những thời khắc thích hợp và đầy ý nghĩa nhất. Người chủ trì dứt khoát phài là bậc cha mẹ trong gia đình, vốn lắng nghe và suy niệm Lời Chúa, vốn học hỏi những gì quan trọng nhất trong đời sống từ Chúa và đưa những răn dạy của Chúa vào thực hành. Bằng cách này đời sống cá nhân và gia đình dần dần được biến chuyển và cải thiện, đối thoại được làm cho phong phú, đức tin được truyền cho con cái, niềm vui được cùng nhau làm tăng thêm và ngôi nhà trở nên được hiệp nhất và củng cố thêm, giống như căn nhà được xây dựng trên đá".

Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI nhấn mạnh "bằng sức mạnh từ lời cầu nguyện, gia đình sẽ trở thành một cộng đoàn các môn đệ và nhà truyền giáo của Chúa Kitô... Qua những kinh nghiệm về đức vâng lời của đạo làm con đối với Thiên Chúa, lòng trung tín và quảng đại trong việc chào đón trẻ nhỏ, chăm sóc cho người yếu ớt và sẵn lòng tha thứ, gia đình sẽ trở thành một đời sống Tin Mừng mà tất cả mọi người có thể đọc được". Hơn nữa, các gia đình phải "mang chứng tá của mình về đời sống và sự tuyên bố dứt khoát của mình về đức tin cho những người xung quanh, như nhà trường và các mối quan hệ quanh mình, và phải dấn thân vào việc giáo dục giáo lý cho con cái mình cũng như các hoạt động mục vụ của cộng đồng giáo xứ mình, nhất là các hoạt động kết hợp với việc chuẩn bị hôn nhân hoặc hướng dẫn cụ thể cho đời sống gia đình".

Ngài cũng giải thích: "Do chức năng xã hội thiết yếu của nó mà gia đình có quyền được biết đến với một đặc tính riêng biệt được công nhận và không thể lẫn lộn với các hình thức khác của sự chung sống. Nó cũng phải được đảm bảo có được sự bảo vệ thích đáng về văn hoá, pháp lý, kinh tế, xã hội và sức khỏe. Nhất là gia đình phải được ban cho sự ủng hộ, vốn hằng ghi nhớ về số trẻ trong gia đình và các nguồn kinh tế có thể kiếm được, đủ để có khả năng tự do về giáo dục và lựa chọn trường học".

Cuối cùng Đức Thánh Cha nhấn mạnh đến sự cần thiết "phát triển nền văn hóa gia đình và các chính sách gia đình được định hướng bởi chính các gia đình". Trong bối cảnh này, ngài khuyến khích các cử tọa "tham gia vào các hiệp hội vốn cổ võ đặc tính và quyền lợi của gia đình trong việc gìn giữ viễn tượng nhân loại học gắn kết với Tin Mừng. Hơn nữa, tôi mời gọi những hiệp hội này cộng tác với nhau để hoạt động của mình thêm hiệu quả".

Hôm 18/01/2009, trong bài giảng qua hệ thống truyền hình cho khách hành hương tham dự Thánh Lễ Bế Mạc Cuộc Họp Mặt Thế Giới các Gia Đình thần thứ 6 tại quảng trường trước Vương Cung Thánh Đường Đức Bà Guadalupe, Đức Thánh Cha đã công bố Cuộc Họp Mặt Thế Giới các Gia Đình lần tới sẽ diễn ra ở Thành phố Milan vào mùa Xuân 2012 với chủ đề: “Gia Đình trong Tác Vụ và Đại Lễ”
 
Obama nhậm chức làm khối người… thèm!
Alfonso Hoàng Gia Bảo
17:57 21/01/2009
Theo dõi buổi lễ nhậm chức tổng thống Mỹ của ông Barack Obama hôm qua 20/1, chỉ với 4 năm cầm quyền quốc gia này đã tổ chức một cách long trọng, hàng triệu người dân trên khắp đất nước nô nức đổ về Washington chúc mừng, mới thấy hai chữ “vĩ đại” hay đi kèm tên tuổi các lãnh tụ xứ mình sao mà ‘bèo bọt’ quá thể!?

Cho dù VN mình đất không rộng, dân không đông và kinh tế cũng không giàu mạnh như Hoa Kỳ nhưng cũng không thể lấy đó để biện hộ cho việc những ông bí thư bà chủ tịch nhận nhiệm sở lúc nào không ai biết, ‘ngồi lì’ tới chừng nào mới ra đi cũng chẳng ai hay, để đến nỗi cứ mỗi khi hội nghị trung ương đảng nhóm họp như vừa rồi, là bà con cô bác trong ngoài nước cứ phải đoán già đoán non ‘trật lất’ đến tội nghiệp!

Bởi vậy thế gian chỉ một chân lý, dù là theo thể chế chính trị nào nhưng một khi ‘cái ghế’ không cần tốn nhiều công sức có kẻ vẫn có được, đều là chỗ ngồi giá rẻ!.

Ngay từ thời trẻ mấy chục năm trước, hẳn là B. Obama cũng đã có những giấc mơ và ông phải có niềm tin vào khả năng hiện thực của nó, mới có thể giúp ông trở thành tổng thống hôm nay. Còn với 80 triệu dân VN mình cho đến hiện nay đầu thế kỷ 21 này, một giấc mơ như thế vẫn còn là điều gì đó quá xa vời đến độ không tưởng. Nhưng điều tệ hại này sẽ tiếp tục kéo dài mãi nếu bản thân mỗi người chúng ta không bao giờ biết ray rức về nó và quan trọng hơn dám tin rằng giấc mơ ấy mỗi ngày đang đến gần hơn.

Nhìn vào thực trạng đất nước đang ngày càng có thêm nhiều cuộc ganh đua mới nảy sinh ở nhiều lĩnh vực được dân chúng quan tâm, nhưng đơn giản chúng chỉ gắn liền với quyền lợi miếng cơm manh áo vì thế mới chỉ dừng lại ở đó. Nhưng với đà phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin chi phối mọi lĩnh vực, mỗi ngày một chút, từ lĩnh vực này sẽ dẫn đến lĩnh vực khác, một lúc nào đó dân đa số dân nhận ra họ đang bị o ép về chính trị và quan trọng hơn, như dân các nước tiến bộ họ ý thức được rằng, chính trị chính là yếu tố then chốt của mọi vấn đề, khi ấy buộc lòng đảng csvn phải thích nghi với nhu cầu mới của xã hội. Nếu không, họ hoặc bị dân chúng lôi cổ xuống như ở Đông Âu hoặc chuyện khủng hoảng trong chính nội bộ họ sẽ xảy ra dẫn đến tự triệt hạ lẫn nhau như ở Liên Xô đầu thập niên 90.

Nhân chuyện thắng cử của ông Barack Obama với lễ nhậm chức tổng thống Mỹ vừa diễn ra, xin ‘bật mí’ cùng mọi người có một cuộc bầu cử rất dân chủ khác cuốn hút hàng triệu người trẻ ở VN tham gia gần đây, hình thành nên như một phong trào, mặc dù ý nghĩa “dân chủ” của nó, vì các em bị chế độ ‘nhồi sọ’ quá nhiều từ ghế nhà trường, vì thế có thể còn ít người nhận ra, đó là cuộc thi “Vietnam Idol” hay còn gọi là ‘Thần tượng Âm nhạc’. Điều này là quan trọng vì đó là dấu hiệu cho thấy, dân chủ ở VN ngày nay đang bắt đầu vượt qua chuyện “côm áo gạo tiền” để lấn sang những ‘sân chơi’ tinh thần khác chính là nền tảng thúc đẩy cải tổ chính trị ở VN sớm diễn ra.

2008 là năm tổ chức thứ 2 với đêm chung kết vừa diễn ra tại Nhà hát Hòa Bình, Tp.HCM tối 14/1/2009 tuần qua. Cuộc thi nhận được sự quan tâm theo dõi của rất nhiều người khắp cả nước, già trẻ lớn bé có đủ cả như một sự kiện, nếu có thua kém bóng đá chắc chỉ là cảnh xuống đường la hét.

Mặc dù là người cũng rất yêu âm nhạc nhưng cái gây chú ý tôi lại là tính cách đối xử minh bạch và rất công bằng của cuộc thi này: Ban giám khảo 3 người mặc dù đều là những nghệ sĩ tên tuổi, nhưng họ chỉ có quyền đưa ra những đánh giá và góp ý cho các thí sinh mà không có quyền chấm điểm. Chuyện đậu rớt cũng như thứ hạng cao thấp của các thí sinh do khán giả xem truyền hình cả nước quyết định qua điện thoại, internet v.v… Trong một xã hội độc tài đảng trị một cuộc thi dân chủ như vậy chính là một cuộc bầu cử tổng thống theo kiểu Mỹ bị thu nhỏ lại trong lĩnh vực âm nhạc.

Trước hết về kết quả cuộc thi. Sau hơn 6 tháng tranh tài ‘Vietnam Idol’ 2008 đã khép lại bằng đêm đăng quang của chủ nhân ngôi vị Thần tượng Âm nhạc Việt Nam 2008 là chàng trai 21 tuổi đến từ tỉnh Đồng Nai, Trần Quốc Thiên, sinh viên Nhạc viện TP.HCM. Tối chung kết trao giải đã rất nhiều quan chức VN từ khắp mọi miền đất nước về tham dự, kể cả ở cấp bộ ngoài Hà Nội đến dự. Nhân vật trẻ đang có nhiều hứa hẹn sẽ trở thành “vĩ đại” sau này là ‘đồng chí’ Võ Văn Thưởng, Bí thư Thứ nhất Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh chắc đang ‘bận chạy’ đâu đó nên chỉ kịp chúc mừng qua màn ảnh.

Tuy nhiên, những quí ông tai to mặt lớn này không phải là chuyện đáng để tôi đem ra hầu chuyện cùng quí vị, mà là trong lúc giao lưu cùng vài trăm khán giả có mặt tại nhà hát cùng với sự theo dõi của hàng triệu khán giả cả nước, cô MC duyên dáng đã hỏi “Quí vị có biết vì sao mà cuộc thi Thần tượng Âm nhạc VN lại hấp dẫn đến mức đã có tới hơn 15 ngàn thí sinh trẻ trên khắp mọi miền đất nước đăng ký dự thi không?” và sau một vài phút nhốn nháo dưới các hàng ghế khán giả, cô ta đã đúc kết “vì đây là cuộc thi mà mọi bạn trẻ đều có cơ hội trổ tài ngang nhau, không phân biệt tuổi tác, trình độ, nghề nghiệp v.v…” nói chung là hấp dẫn vì cách tổ chức rất dân chủ và công bằng.

Trước đó thỉnh thoảng theo dõi vài vòng ngoài mấy tháng trước ở cả 3 miền tôi cũng thấy tinh thần của cuộc thi đúng là như vậy. Có những em nhà nghèo đi làm thuê cũng háo hức đăng ký, miễn là tay chân, người ngợm mọi thứ còn lành lặn chỉ cần biết hát là đều được dự thi, rất công bằng. Tuy nhiên, lời ca ngợi rất hồn nhiên vô tư trên của cô MC, chắc hẳn đã khiến không ít quan chức hiện diện hôm ấy cảm thấy ‘nhột’ bởi họ đang là đại diện cho một chính thể quá độc tài, đảng csvn không cho phép bất cứ người dân nào cơ hội tranh đua bình đẳng những chức vụ lãnh đạo hiện đang do trên 1 triệu đảng viên cộng sản của họ nắm giữ, họ đối xử với dân tệ hơn rất nhiều so với những gì các em thí sinh của cuộc thi này đang được hưởng.

Cũng cần nói thêm Vietnam Idol được biết là một phiên bản có license của America Idol, năm 2007 David Cook một thanh niên làm nghề pha rượu đã đăng quang giải này ở Mỹ. So với giải “Tiếng hát Truyền hình” của HTV mặc dù là cuộc thi hát ‘già cội’ nhất nước, nhưng bị chi phối bởi HTV cũng là một cơ quan nhà nước, nên đã bị ‘tham nhũng’ hoành hành, ban giám khảo chấm điểm thiên vị ra mặt khiến nó bị ‘phá sản’, trong khi ‘Vietnam Idol’ chỉ mới xuất hiện 2 năm nay đã bỏ xa cho cuộc thi của HTV, cho ta thấy dân chủ không hề là điều gì quá xa vời như những sự khoác lác của các quan chức VN hay phát biểu cùng thế giới hoặc tìm cách né tránh tối đa.

Hôm 19/1, trong buổi phỏng vấn đại sứ Việt Nam tại Hoa Kỳ về quan hệ Việt-Mỹ, khi phóng viên Nguyễn Khanh hỏi một đằng “…ông Đại sứ nhận xét như thế nào về cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ vừa rồi ?” thì ông Lê Công Phụng đã trả lời một nẻo, lạc đề quá xa như sau “Tôi cũng như nhân dân Việt Nam chia sẻ vui mừng về sự thành công trong cuộc bầu cử vừa rồi với nhân dân Mỹ. Chúng tôi cho rằng cuộc bầu cử vừa rồi là thắng lợi, tạo nên một nội các mới với vị Tổng thống mới. Chắc chắn là nội các đó, chính quyền đó sẽ tiếp tục thực hiện mục tiêu mà các đời Tổng thống đã làm vì lợi ích nước Mỹ, vì lợi ích cho nhân dân Mỹ. Trong mối quan hệ với Việt Nam thì tôi cũng rất tin tưởng là chính quyền mới của ông Obama sẽ cùng với chúng tôi thực hiện những thỏa thuận mà 2 bên cần thiết phục vụ cho lợi ích của mỗi bên” . Đâu có ai hỏi ông Phụng về những dự đoán quan hệ Việt Mỹ đâu mà ông ta phải nhỉ?

Trước đó, trong 2 ngày 17 và 18 tháng 12 vừa qua, phái đoàn Quốc Hội Việt Nam đã đến thăm Quốc Hội Châu Âu ở Brussels và Strasbourg trong cuộc đối thoại lần thứ 7 liên quan đến việc thương thảo ký lại hiệp ước Song phương Liên Âu Việt Nam. Nguyễn Viết Thịnh, Đại biểu Quốc hội thành phố Hà Nội, đã dám ‘lộng ngôn’ rằng “nhân quyền là những giá trị chung, nhưng sự áp dụng nhân quyền tùy thuộc mức độ kinh tế của quần chúng: Đối với dân chúng nghèo họ không quan tâm đến tự do ngôn luận mà quan tâm về ăn uống, đói no.”

Trong khi còn đang nhận lương từ tiền thuế của dân để sống, mà lại dám nói năng xem thường những người đã nuôi dưỡng họ như vậy, nếu chuyện xảy ra trong gia đình, con cháu họ chắc chắn cũng phải lắc đầu ngán ngẩm, những người một thì thử hỏi họ đào đâu ra trình độ và tư cách đạo đức để làm đại diện cho dân.

Bởi vậy thấy Obama nhậm chức, VN mình khối người phát thèm. Dân thèm vì không có cơ hội còn quan thèm vì thấy mình chẳng những thiếu tài hụt đức mà còn như thiếu mất luôn cả … ‘lá gan’!

Tham Khảo:
http://www.vietnamidol.com.vn/
http://www.americanidol.com/
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/interviewing-with-VN-Aamb-to-the-US-on-VN-US-relationship-during-Qbama-administration-NKhanh-BMinh-01192009213422.html
 
Nhân ngày Barack Obama nhận chức Tổng Thống Hoa Kỳ
Công Dân
17:59 21/01/2009
Ngày 20 tháng 1 vừa qua không chỉ là một sự kiện đáng ghi nhớ đối với công dân Hoa Kỳ, mà còn là sự kiện được quan tâm của các thông tấn và truyền thông quốc tế. Đó là ngày Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ đón nhận vị Tổng thống thứ 44 của mình. Tân Tổng thống là người da đen đầu tiên. Đặc biệt, đây là niềm tự hào đối với người dân da đen. Hẳn còn nhớ, cách đây sáu mươi năm người da đen không dám mơ ước đặt chân vào nhà hàng, dù chỉ là một chân bồi bàn. Thế mà hôm nay lịch sử đã được lật sang một trang mới. Obama đã là ông chủ của Tòa Bạch Ốc.

Chào đón sự kiện này, hàng trăm ngàn người dân Hoa Kỳ có mặt tại nơi mà tân tổng thống tuyên thệ nhậm chức. Họ thực sự vui mừng và quan tâm đến ngày trọng đại của Obama, vì chính họ đã bỏ lá phiếu để chọn ra vị tổng thống cho mình. Và phía tân tổng thống cũng thật tự hào vì ông đã đạt được tột đỉnh vinh quang bằng chính tài năng của mình. Không biết tương lai Hoa Kỳ dưới thời Obama sẽ tiến đến đâu. Tuy nhiên ngay từ ban đầu đã có một sự thỏa thuận sòng phẳng: người lãnh đạo được dân tín nhiệm thực sự. Họ hoàn toàn đặt niềm tin tưởng vào khả năng lãnh đạo của người mà họ đã chọn.

Chỉ tại những nước có nền dân chủ thực sự như tại Hoa Kỳ thì mới có được tinh hoa này. Như lời ca tụng của Tân Tổng thống về đặc quyền ấy thì đây sẽ là điểm mạnh để cùng nhau xây dựng đất nước. Ông cho rằng hãy nhìn trực tiếp vào những đóng góp và những hành động tích cực, chứ đừng nhìn vào màu da để phân biệt.

Giả sử tổ tiên của Obama trước đây bị bán sang làm nô lệ tại Việt Nam, thì cho dù một tài năng như Obama muôn đời vẫn chỉ là thế hệ con cháu của hạng nô lệ. Làm sao có thể được trọng dụng, khi mà ở đó vẫn đặt nặng vấn đề lai lịch nguồn gốc. Nếu một nhân tài xuất thân từ thành phần tư sản, địa chủ hay công giáo thì đừng hòng trông mong có được một chỗ đứng trong xă hội phù hợp với khả năng của chính mình. Dù Giáo Hội Công giáo Việt nam có sở trường về y tế và giáo dục thì cũng bị gạt ra ngoài lề. Đừng bao giờ mơ tưởng đến việc mở trường học và bệnh viện.

Đây là nguyên nhân dẫn đến sự tụt hậu của Việt nam. Một đất nước với hơn 85 triệu dân nếu kết hợp được tất sức mạnh của các thành phần thì đây sẽ là một lợi thế giúp đất nước phát triển tột bậc. Đảng cộng sản Việt Nam rất nhiều nhân tài. Nhà lãnh đạo cộng sản Việt Nam nào hoặc khi bắt đầu nhậm chức, hoặc khi từ trần cũng đều được ca ngợi là nhà lãnh đạo ưu tú và lỗi lạc. Thế nhưng đó là tiêu chí của nội bộ đảng đưa ra. Đấy không phải là tiêu chí chung của công chúng toàn quốc và không hợp với xu hướng thời đại.

Hầu hết các vị lãnh đạo cộng sản Việt nam trưởng thành trong các cuộc chiến tranh. Đếm trên đầu ngón tay cũng khó có thể tìm ra được những người trí thức, những nhà khoa học hay những luật sư trong đội ngũ ấy. Đâu có ai được đào tạo có trường lớp đẳng cấp quốc tế. Có chăng thì cũng chỉ là bằng cấp tại Việt nam hay Liên xô cũ. Những văn bằng này đâu có giá trị trên trường quốc tế. Chính vì thế thật dễ hiểu tại sao các nguyên thủ Việt nam hay bị mặc cảm trong các chuyến công du mỗi khi phải tiếp xúc với những chính khách thực thụ.

Đất nước đang được điều hành bởi hơn 3 triệu đảng viên. Cứ cho rằng tất cả trong đội ngũ này đều ưu tú hết, thì họ cũng là một một thành phần thiểu số trong một quốc gia có hơn 85 triệu dân. Lãnh đạo tối cao được 160 ủy viên bộ chính trị chọn kín. Sinh mệnh đất nước nằm trọn vẹn trong nhóm này. Thử hỏi trong số 82 triệu dân còn lại con số nhân tài còn cao gấp bội. Số đông nhân tài thực sự này không được sử dụng trong việc đóng góp tài năng và trí tuệ trên mọi lãnh vực đã giúp Việt nam được ghi vào danh sách những nước chậm phát triển và nghèo nhất thế giới.

Trông người mà nghĩ đến ta. Không biết cho đến bao giờ người dân Việt nam mới được vui mừng phấn khởi chào đón vị lãnh đạo đất nước do chính mình bầu ra? Không biết cho đến bao giờ các thành phần dân tộc được quyền đóng góp công sức và trí tuệ để xây dựng đất nước? Không biết đến khi nào những thế hệ Con Rồng Cháu Tiên mới được hít thở bầu khí dân chủ? Không biết cho đến bao giờ ???
 
Đức Thánh Cha Benedict XVI gửi cứu trợ tới Gaza
Bùi Hữu Thư
22:27 21/01/2009

Đức Thánh Cha Benedict XVI gửi cứu trợ tới Gaza



VATICAN, ngày 20, tháng 1, 2009 (Zenit.org).- Hội Đồng Giáo Hoàng Cor Unum đã gửi phẩm vật cứu trợ nhân danh Đức Thánh Cha Benedict XVI cho những người dân chịu khổ cực tại Gaza.

Hội Đồng Giáo Hoàng này trong coi các công trình bác ái của Tòa Thánh, tuyên bố ngày Thứ Bẩy vừa qua là đã gửi “một tín hiệu cá nhân và cụ thể để trợ giúp các nỗ lực cứu trợ của một sự hiện diện nhỏ nhoi nhưng sốt sắng của những người Công Giáo tại Gaza."

Hội Đồng giải thích, "Trước những tranh chấp không ngừng tại Giải Gaza, đã gây nên một nạn khủng hoảng nhân đạo to lớn, Đức Thánh Cha Pope Benedict XVI đã khẳng định rất nhiều lần tình cảm mật thiết ngài dành cho những người anh chị em, đã chiụ khổ cực biết bao.”

Hội Đồng nói, phẩm vật cứu trợ được gửi tới Linh Mục Manuel Musallam, Cha xứ Nhà Thờ Thánh Gia, Các Tu Sĩ Truyền Giáo Bác Ái và các dòng tu khác, "là những người đang phục vụ cho những kẻ đặc biệt yếu đuối tại quê hương Chúa Giêsu, bây giờ lại chiụ đựng những chết chóc, đau thương, thiệt hại tài sản, và đang khóc than kêu gọi hòa bình."
 
Top Stories
Vietnam: Catholics help the poor to celebrate the Lunar New Year in dignity
J.B. An Dang
19:22 21/01/2009
Catholics in Vietnam have launched many new initiatives to help people to celebrate the Lunar New Year in dignity during the long-lasting economic crisis.

The Communist Party government of Vietnam is facing its biggest economic test since market liberalization began in the mid-1990s. It has cut growth targets to 6.5 per cent from an optimistic estimation of 8 per cent previously, and raised interest rates three times during last year to fight double-digit inflation. The monthly rate of inflation was 14.1 in January 2008. It soared to 28.32 in August and has stayed strong for several months.

In that context, Catholic bishops have raised their concerns that some will not have enough food for their daily meals during the Lunar New Year Celebration (commonly known as Tết) due to a spike in food and fuel prices.

A Buddhist with gift and money from Phu Hanh parish
In the archdiocese of Saigon, Fr. Dominic Truong Kim Huong, pastor of Phu Hanh parish, asked his parishioners to save money for the poor. After months of cutting their family budget to a minimum, 4650 parishioners had saved up to 214,843,000 VND (12,330 USD). That money has been distributed to 200 local families. Most of them are Buddhists.

The initiative got started on Ash Wednesday of 1997 as a practical gesture of almsgiving in the first day of the Lent season. Every year, on the Ash Wednesday, every Catholic family in the parish receives a porcelain piggy bank (commonly known as Con Heo Đất). These piggy banks are to be brought back to Church a fortnight before the eve of the Lunar New Year. This cash savings is then distributed to poor families in the neighborhood. In the first year of 1997, the whole parish saved 32,000,000 VND. The dollar figure was swollen to 203,900,000 VND in 2008.

Fr. Joseph Le Quang Uy, a Redemptorist, has taken donation collecting technique to a higher, broader level by appealing to readers on his website (http://www.trungtammucvudcct.com). As a result of his initiative, readers from Vietnam, Australia, Belgium, Canada, France and the United States have donated between 45,800 USD to 57,200 USD each year.

According to Fr. Joseph Le, the donated money is well used for food, clothes, medicine and wheelchairs for poor students, orphans, people with AIDS or physical disabilities, also for victims of natural disasters, and people who needed major medical necessities such as heart or eye surgeries. A big part of the money is used to build houses and dig wells for the poorest among the poor in remote areas.

Last year, over 100 local volunteers have worked with Fr. Joseph Le in "pro-life activities," including providing accommodation, food and medicine for women with unwanted pregnancies. Thanks to these efforts, 600 women have given birth rather than have an abortion.

As Tết approaches, Fr. Joseph Le has been busy distributing money, food, clothes, medicine for the poor in remote areas of Vietnam Central Highland in Dalat, Kuntom, Buon Me Thuot, and Dac Lac provinces. He could hardly find time to shop for his new pair of shoes.

The sisters of St Paul de Chartres in the Southern tip of Vietnam, whose house in Vinh Long was confiscated and converted into a public park, are also trying their best to keep up with the pace. They had decided to put their Tet celebration on the back burner for now and put aid distribution on first priority. This year the list of recipients seems longer due to ailing economy of the country. These nuns do that as a routine and without second thought since history of their Order in this poor region has always been tied up with making others' ends meet first.
 
Tin Giáo Hội Việt Nam
Đêm nhạc của tác giả Thông Vi Vu (ĐC Thống)
Maria Vũ Loan
14:36 21/01/2009
SAIGÒN - Tối ngày 19/01/2009, nhiều linh mục, tu sĩ và đông đảo giáo dân đã đến thưởng thức một chương trình ca nhạc đặc sắc tại giáo xứ Thanh Đa, Sài Gòn. Đây là đêm nhạc “Đôi Khi”với những ca khúc “ Hạt gống tâm hồn” của tác giả Thông Vi Vu.

Xem hình ảnh Đêm Nhạc

Rất đúng khi gọi đây là chương trình ca vũ nhạc đặc sắc vì có bốn phần nội dung rất phong phú và bài hát nào cũng có múa minh họa rất sinh động.

Mở đầu là phần giới thiệu, tuyên bố khai mạc như bao chương trình lễ hội khác nhưng dàn trống khai mạc có trang phục đỏ, đẹp được các thiếu nữ thể hiện rất hay. Bốn phần nội dung lần lượt đi qua với ý nghĩa: KHƠI TIN TƯỞNG – GỢI Ý SỐNG – GỌI YÊU THƯƠNG – GIEO HY VỌNG.

Người ta nghe tiếng hát của ca sĩ Trần Ngọc như bùng lên qua Bài Ca Lửa Cháy:

Bài ca lửa cháy mãi nồng say, hát từng trời mây với cỏ cây.

Hát đẹp ngày nay, chào ngày mai
… ”

Có ai dám tự hào, dám quả quyết rằng mình làm được điều gì lớn lao khi chỉ có một mình, vâng, “ Một Mình Không Thể” là bài hát do ca sĩ Hồng Mơ thể hiện:

Con chỉ là cánh én, nhìn trời cao vút thênh thang, một mình con không thể làm nên cả một mùa xuân.

Con chỉ là giọt nước giữa lòng biển cả mênh mông

Một mình sao có thể tưới mát cho ruộng đồng


Bài “ Dấu Chấm” do ca sĩ Gia Ân trình bày, đã lấy ý tưởng từ hình ảnh, khi chúng ta lao đao giữa dòng đời, ta không còn thấy dấu chân mình nữa, vì Chúa đã vác ta lên vai

Những người tham dự được bước sang phần gợi ý sống. Phần này như mở lối cho tâm hồn của mỗi người, cách sống sao cho tâm hồn nở hoa, có trái tim sao cho thật là “người” khi biết tha thứ, yêu thương.

Một chút những phút ủi an xóa tan ngàn nổi sầu

Một chút ánh sáng thôi cho lui dần bóng tối

Nghìn chút chút bé nhỏ mà làm cho đời thêm mới
.”

Đây là bài hát Một Chút do hai thành viên của Tam Ca Áo Trắng và tác giả Thông Vi Vu trình bày.

Tại sao chủ đề của đêm ca nhạc lại là từ “Đôi Khi”. Đây chính là tên một CD được giới thiệu trong đêm nay và cũng là tên bài hát do ca sĩ Phương Đông trình bày, có lời thật là hay:

Đôi khi thức suốt đêm dài mới thấy quý ánh ban mai

Đôi khi đường đời long đong mới hiểu thấu ngọt bùi cuộc sống

Đôi khi phải mất một điều mới hiểu được mình có (biết) bao nhiêu


Suốt chương trình lời giới thiệu ngọt ngào của linh mục Giuse Trịnh Tín Ý mang lời giới thiệu như rót sâu vào lòng người làm cho phần thứ ba “Gọi Yêu Thương” thêm sâu sắc.

“Để mẹ trọn niềm vui” là bài hát làm cho ai còn mẹ hay mất mẹ đều có thể bình an khi nghĩ về gia tài lớn nhất của đời mình là Mẹ. Có một chút lãng mạn, nhẹ nhàng của đêm nay qua bài hát “Gọi tên em” do ca sĩ Thanh Sử trình bày:

Thôi thì anh sẽ gọi tên em là hạt mưa

Bởi chiều nay ra phố đứng thấy đất trời đong đưa


Đặc biệt bài hát “Đôi dép” do tác giả Thông Vi Vu cất tiếng hát với phần minh họa của hai em bé, mang nội dung rất hay. Đây là một bài thơ của Nguyễn Trung Kiên, đại ý là hai chiếc dép sánh đôi trong cuộc đời, những thăng trầm vinh nhục đều chia sẻ với nhau. Có một nỗi sợ nếu một chiếc dép mất đi, làm cho chiếc còn lại trở nên vô nghĩa. Nghĩa bóng ở bài thơ là tình yêu của hai người trẻ, yêu và sợ mất nhau. Nâng cao lên ý tưởng thì hình ảnh đôi dép hàm ý tình yêu hôn nhân thì thật là hay.

Đôi dép vô tri khắng khít song hành

Chẳng thề nguyền mà không hề giả dối

Chẳng hứa hẹn mà không hề phản bội

Lối đi nào cũng có mặt cả đôi


Được biết với sự đạo diễn của linh mục Nguyễn Duy, các phần được sắp xếp nhịp nhàng làm cho cả phần cuối cũng vẫn lôi cuốn khán giả. Đó là phần Gieo Hy Vọng.

Bài hát “Ngày mùa” và “Gieo và gặt” được minh họa và hóa trang rất đẹp làm cho người ta cảm nhận được sự tươi trẻ dàn trải trên sân khấu.

Sau cùng là bài đồn ca “Chúc xuân” các ca sĩ và tác giả đều bước lên sân khấu hòa nhịp một cách tươi vui. Đáp lại tâm tình đó, các linh mục, tu sĩ và giáo dân đã lên tặng hoa; MC linh mục và đạo diễn cùng bước lên và có những lời cầu chúc tốt đẹp như một sự cộng hưởng với tài năng và công sức của các nghệ sĩ, ca sĩ, phụ diễn trong đêm nay và sau cùng Đức cha phụ tá Giuse Vũ Duy Thống ban phép lành cho mọi người.

Đêm nhạc kết thúc tốt đẹp, những nốt nhạc trầm bổng như còn đọng lại trong lòng người. Đến đây chắc là nhiều người có thể đoán được tác giả Thông Vi Vu là ai rồi!
 
Bài giảng của Đức Cha Todd Brown, giám mục Orange, tại Hà Nội
+ Bishop Todd Brown
17:54 21/01/2009
Hà nội ngày 21.1.2009

Đức TGM Giuse Ngô Quang Kiệt, người anh em của tôi rất thân mến!

Tôi xin gửi đến Đức Tổng lời chào thân ái từ mọi thành phần thuộc giáo phận Orange, California, giáo phận huynh đệ của Ngài.

Phái đoàn của chúng tôi gồm có: Cha Micae – tổng đại diện giáo phận Orange, cha Tuấn – thư ký của tôi và một số giáo dân, Đức TGM George Niederauer của tổng giáo phận San Francisco… phái đoàn chúng tôi đã làm một chuyến công du khá xa, nhưng được coi như một cuộc hành hương để được gặp gỡ người anh em trong tình huynh đệ.

Chúng tôi rất hãnh diện được cùng chung vui với Đức Tổng, các linh mục, các tu sỹ nam nữ và toàn thể giáo dân Tổng giáo phận Hà Nội trong dịp mừng sinh nhật của Đức hồng y Phạm Đình Tụng và tiệc vui năm mới Kỷ Sửu. Chúng ta cùng nhau cảm tạ Chúa trong thánh lễ tạ ơn hôm nay.

Theo lịch phụng vụ của giáo hội Công giáo, hôm nay chúng ta mừng kính thánh nữ Annê. Thánh nữ đã tử đạo vào thời đế quốc La mã. Ngài đã giữ mình đồng trinh cho Chúa Kitô, hơn là bị ép buộc để lập gia đình.

Hàng năm vào dịp lễ kính thánh Annê, người ta mang đến nhà thờ những con chiên hay cừu non để vinh danh Thánh nữ. Những con chiên này được chúc lành và sau đó được mang về chăm sóc thật chu đáo cho đến khi lông mọc thật nhiều, thì người ta xén lông nó và dệt nên thành những khăn pallia để dâng lên vị Tổng giám mục mới được chọn trong năm đó. Đó chính là gốc tích của dây Pallium mà Đức Tổng Giám Mục Giuse Ngô Quang Kiệt đang đeo quanh cổ hôm nay, ngoài chiếc áo lễ mà chúng ta đang thấy Ngài mặc.

Trong bài Phúc Âm của thánh Macco hôm nay, Chúa Giêsu đã làm phép lạ chữa lành cho một người đàn ông bất toại. Nhiều người bất đồng với Chúa vì Ngài chữa lành trong ngày Sabat.

Lời Chúa dạy rằng, chúng ta được mời gọi để mở rộng vòng tay, sống quảng đại và sẵn sàng nâng đỡ những người thiếu thốn.

Đức Ái là nhân đức cao trọng nhất trong mọi nhân đức, vì hành động bác ái là thuộc về cuộc sống của những người Kitô hữu. Cử chỉ bác ái là tư cách của mỗi người môn đệ của Chúa Kitô.

Một lần nữa, thưa Đức Tổng Giám mục, tôi xin đại diện cho phái đoàn hành hương từ giáo phận Quận Cam và từ khắp tiểu bang Calofornia, xin cảm ơn Ngài đã tiếp đón thật nồng hậu và cho chúng tôi cơ hội để cảm nghiệm được sự thân thiện và niềm vui của Tổng giáo phận Hà Nội. Lẽ dĩ nhiên, chúng tôi chắc chắn tiếp tục nâng đỡ và cầu nguyện cho người anh em.

(Bản chuyển ngữ trực tiếp của Lm. Giuse phạm minh Tuấn)

Dear Archbishop Joseph Ngo Quang Kiet, dear Brother.

I bring greeting to you from all the members of the Church of Orange, your sister. In a particular way Frs. Michael Heher and Tuan Pham, together with several of the laity from Orange, who have traveled here on this pilgrimage greet you. Joining us are Archbishop George Niederauer of San Francisco, Bishop Dan Walsh, on his second visit from Santa Rosa, California, Bishop Wang, and Fr.Jerry McCormick of the Diocese of Monterey, also in California.

We are all honored to join you and so many members of your clergy, religious and laity in this celebration of the birthday of Cardinal Pham Dinh Tung, and the early New Year celebration. We are indeed grateful for the invitation to join you in this Eucharistic celebration.

In the liturgical calendar for today, we honor St.Agnes, the early Roman martyr, who gave up her life of chastity consecrated to Jesus Christ rather than be forced into a marriage not of her choosing. Each year on this day young lambs are brought to the Roman Church named in her honor. The lambs are blessed and then cared for until they are sheared and their wool woven into the pallia given to the new archbishops named that year. That is the history of the pallium Archbishop Joseph Ngo Quang Kiet is wearing today.

In our Gospel passage from St.Mark, we learn of the miraculous healing by Jesus of the man with the withered hand. Some people did not approve because Jesus healed in the Sabbath. The lesson for us, I believe, is that whenever possible we are called to reach out to the person in need. Charity is the most important of all the virtues that are part of the Christian life. Charity defines the Christian, the disciple of Jesus.

Again, Archbishop Kiet, let me express, in the name of all of us pilgrims from Orange and other parts of California, our gratitude to you for hosting us and for this opportunity to experience the friendship and joy of this great Church of Hanoi. Please be assured of our prayers and support.
 
Bênh vực công lý và Giáo Hội
Ðảng viên đập nhau lỗ đầu vì cách phân chia gạo cứu đói
TH
16:13 21/01/2009
Hình bên: Hai nông dân kẻ giắt bò người đẩy cày trên một cánh đồng. Tuy đã sang thế kỷ thứ 21 và nhà nước CSVN tuyên truyền đưa đất nước ra khỏi các nước nghèo khó trên thế giới ngay từ năm 2009. Nhưng trên các cánh đồng ruộng, nông dân vẫn cùng với trâu, bò cày ruộng lam lũ cực khổ và vẫn không đủ sống. (Hình: AFP/Getty Images)

HÀ TĨNH 19-1 (TH).- Ăn bớt ăn xén gạo cứu đói cho dân đã đành, hai đảng viên đảng CSVN ở tỉnh Hà Tĩnh đã mang thương tích đến phải nằm bệnh viện trong một trận ẩu đả chỉ vì tranh nhau một ít gạo cứu đói.

Theo bản tin báo điện tử Vietnamnet ngày Chủ Nhật 18/1/2009, sự việc xảy ra tại xã Thạch Bàn huyện Thạch Hà tỉnh Hà Tĩnh khi phân chia một số gạo cứu đói mà địa phương này được cấp để phân phối.

VietnamNet thuật lời Ðặng Văn Hà, chi hội trưởng hội nông dân thôn 8, mà nguồn tin này nói là người đã tích cực đấu tranh chống tiêu cực: “Trong lúc đang bàn cãi chuyện chia gạo thế nào cho hợp lý, tôi đã bị ông Trần Xuân Lục - chi hội phó hội cựu chiến binh thôn 8 đánh liên tiếp vào mặt. Thấy vậy, người cháu của tôi đã nhảy vào đẩy ông Lục ngã. Do vấp phải đá nên ông Lục đã bị thương”.

Vì bị thương tích khá nặng, ông Lục đã được đưa vào bệnh viện nằm điều trị. Nguồn tin nói cũng vì tranh giành và đánh nhau nên trong buổi chiều 16/1/, số gạo hơn 500 kg chỉ phát được một nửa, số còn lại được cấp phát tiếp trong buổi sáng hôm sau. Số gạo này tuy không là bao nhưng lại được chia cho 43 hộ với 81 khẩu. “Tiêu chí của đợt phát lại số gạo trên là cho những gia đình gặp hoàn cảnh khó khăn,” Vietnamnet nói.

Ðiều oái oăm là dân đói phải gửi gạo đến cứu nhưng quan xã này đã bán 3 tạ gạo cứu đói lấy tiền “làm cổng sắt cho hội quán”.

Ngày 14/1/2009 báo Dân Trí tường thuật chuyện chia gạo cứu đói ở xã Thạch Hà đã kể cho thấy, quan chức địa phương đã có “hàng loạt sai phạm, tắc trách” cho nên phần lớn gạo cứu đói đã không đến được tay người dân.

Xã Thạch Bàn, theo các tin trước đây cho hay, quá nửa là các gia đình nghèo đói. Phần lớn dân làng sống bằng công việc làm thê cho một mỏ khai thác đá ở núi Rục. Một năm trước, tai nạn sập mỏ đá đã làm cho 7 người dân chết và mỏ khai thác đá này bị buộc phải đóng cửa vì không có các biện pháp oan toàn bảo vệ người lao động. Có việc làm, tuy cực khổ và nguy hiểm, nhưng người dân còn có miếng ăn. Mỏ đá đóng cửa, tất cả đều thất nghiệp ở một vùng đất đai cằn cỗi. Cũng vì vậy mà họ trở thành nạn nhân của cái đói triền miên, được cứu đói vào những ngày sắp đến tết. Tuy nhiên, việc cứu trợ đã bị quan chức mánh mung xà xẻo. Bản tin báo Dân trí ngày 14/1/2009 viết: “Chính quyền xã Thạch Bàn, đứng đầu là ông Nguyễn Văn Lượng đã làm ngược lại, khi tự ý điều chỉnh lượng gạo chia cho các thôn mà UBND huyện đã quyết định, tự ý cho các thôn huy động nguồn đóng góp của dân để chi trả chi phí vận chuyển, bốc vác; quá trình triển khai thiếu kiểm tra để các thôn tự ý chia theo bình quân nhân khẩu, cũng như phải hoàn trả nợ thuế mới được nhận gạo...

Chính những sai phạm, tắc trách của xã đã tạo điều kiện cho các xóm tự tung tự tác trong việc phân phát gạo cho dân. Sai phạm nghiêm trọng nhất trong việc làm méo mó chủ trương phát gạo cứu đói cho dân diễn ra tại xóm Tiền Phong (xóm 8).

Tiết lộ mới nhất của những người trong cuộc cho thấy, trong quá trình triển khai, “bộ sậu” cán bộ xóm này gồm bà Phạm Thị Hoài (Bí thư Chi bộ), Trần Hữu Sơn (Trưởng thôn), Trần Văn Khánh (Phó Bí thư), Nguyễn Phi Minh (Hội trưởng CCB), Nguyễn Văn Hà (công an viên phụ trách thôn) đã lộng quyền, coi trời bằng vung.

Ngoài việc ép dân hoàn thành nợ thuế mới được nhận gạo, những cán bộ xóm nói trên đã thông đồng khai man nhân khẩu được nhận gạo, đặc biệt số cán bộ này đã biển thủ hơn 500kg gạo (trong tổng số 18.350kg được cấp) của nhân dân.

Khi bị người dân thôn Tiền Phong phát giác, những cán bộ nói trên đã dùng hàng loạt chiêu bài để chối bỏ hành vi của mình. “Rải tiền” nhằm bịt miệng không xong, cán bộ xóm chuyển qua uy hiếp những người dân đứng ra tố cáo.”

Khi bị tố cáo nên nuốt không trôi số gạo còn lại, các quan đã đánh nhau vì không đồng ý được với nhau chia ra thế nào.
 
Tài Liệu - Sưu Khảo
Vatican và Vấn Đề Tài Liệu
Vũ Văn An
02:18 21/01/2009
VATICAN VÀ VẤN ÐỀ TÀI LIỆU

Trong bài “Gia Tô Bí Lục Tân Thời”, chúng tôi đã nhắc tới John Cornwell và tác phẩm “Giáo Hoàng Của Hitler”, trong đó ông lớn tiếng chỉ trích sự im lặng của Đức Piô XII trước cảnh Đức Quốc Xã tiêu diệt dân Do Thái.

Dường như Cornwell tin rằng với phát súng điếc tai của mình, Vatican sẽ làm hơn nữa để mở tất cả các hồ sơ hiện có liên quan đến triều đại đức Piô XII. Như trên kia đã nhắc, ông cho rằng Hocchuth có công vì nhờ Vị Ðại Diện, Vatican đã phải cho công bố bộ 11 tập hồ sơ ADSS (1) về thời Thế Chiến II là thời trùng với phần đầu triều đại Đức Piô XII.

Thực ra, không hẳn như thế. Theo linh mục Blet, người sống sót duy nhất trong số bốn sử gia Dòng Tên có nhiệm vụ san định bộ tài liệu trên, lý do của việc công bố này xuất phát từ một hậu cảnh bao quát hơn nhiều. Linh mục Blet viết: “Sự quan tâm đặc biệt đối với các biến cố của Thế Chiến II và ý muốn viết lịch sử về nó dựa trên tài liệu, chứ không phải chỉ dựa trên những trình thuật hoặc chứng từ ít nhiều có tính gián tiếp, đã thuyết phục được các Nhà Nước có liên hệ đến cuộc tranh chấp bằng lòng cho công bố các tài liệu mà công chúng cho đến nay chưa được phép đọc”. Nghĩa là không phải do sức ép của Vị Ðại Diện, mà là do nhu cầu chung được mọi quốc gia liên hệ đáp ứng.

Một công trình khó khăn

Việc công bố các tài liệu thời chiến của Vatican được trao cho ba linh mục dòng tên: Angelo Martini, chủ bút tờ La Civilta Cattolica, Burkhart Schneider và Pierre Blet, cả ba lúc ấy đang phụ trách môn Giáo Sử tại Ðại Học Gregoriana. Công việc bắt đầu tháng Giêng năm 1965, tại một văn phòng gần văn khố của Bộ Giáo Vụ Ðặc Biệt và Phân Bộ Thứ Nhất thuộc Phủ Quốc Vụ Khanh, là nơi lưu giữ các hồ sơ thời chiến. Nhiệm vụ san định này không đơn giản như người ta nghĩ. Bởi văn khố vốn không được mở cho công chúng, nên không có bản liệt kê theo hệ thống. Các tài liệu vốn lại không được xếp loại theo thứ tự thời gian cũng như khu vực địa dư. Các tài liệu chính trị, và do đó liên quan tới chiến tranh, đôi khi lại được xếp chung với các tài liệu có tính chất tôn giáo, giáo luật hoặc ngay cả cá nhân nữa, và được đựng trong các hộp tuy dễ xử lý nhưng đôi khi lại bao gồm quá nhiều các nội dung khác nhau. Tin tức về Anh có thể tìm thấy trong các tập hồ sơ về Pháp, nếu tin tức đó được gửi qua Sứ Thần tại Pháp. Cũng vậy, việc can thiệp cho các con tin Bỉ lại thấy trong các hộp thuộc Sứ Thần tại Berlin. Bởi thế cần phải xem sét từng hộp và căn cứ vào nội dung mà lựa ra các tài liệu thuộc chiến tranh.

Tuy nhiên công việc tìm tòi của ba linh mục đã được đơn giản hóa phần nào nhờ một qui luật của Phủ Quốc Vụ Khanh có từ đời đức Urbanô thứ 8 định rằng trong một bức thư, các sứ thần chỉ xử lý một vấn đề duy nhất mà thôi. Mặt khác, nhờ làm việc ngay tại văn phòng của Phủ Quốc Vụ Khanh và có ủy nhiệm đàng hoàng, nên ba linh mục không bị những hạn chế của các học giả công chúng bình thường. Các ngài được tự ý lấy các hộp khỏi giá đựng ở phòng lưu giữ. Một điểm thuận lợi nữa là các tài liệu phần lớn đều là những bản rời, được đánh máy đàng hoàng. Nhờ thế, ngay khi nhận dạng chúng nói về chiến tranh, thì chỉ cần lấy chúng ra, cho chụp bản sao và gửi bản sao đến nhà in với các ghi chú cần thiết.

Dù công việc tiến triển khả quan, mùa Ðông năm ấy, ba linh mục cũng đã yêu cầu sự trợ giúp của Cha Robert Leiber, đang hưu trí tại Học Viện Ðức sau khi làm thư ký riêng cho Đức Piô XII hơn 30 năm. Cha Leiber theo dõi sát nút các vụ việc liên quan đến Ðức và chính ngài phát giác sự hiện diện của bộ thư giữa đức Piô XII và các giám mục Ðức. Các thư này là nội dung của tập thứ hai trong bộ tài liệu, chúng là những tài liệu nói lên suy tư rõ nhất của Đức Piô XII.

Các tập trong bộ tài liệu

Tập thứ nhất nói về 17 tháng đầu tiên trong triều đại đức Piô XII (tháng 3 năm 1939 đến tháng 7 năm 1940), phần lớn đề cập đến các cố gắng tránh cho chiến tranh khỏi xẩy ra, đã được xuất bản tháng 12 năm 1965 và được mọi người chào đón. Năm 1966, giữa lúc đang cần một học giả rành tiếng Anh vì càng ngày ba linh mục càng khám phá ra nhiều tài liệu bằng tiếng Anh nói về các liên hệ giữa đức Piô XII và Roosevelt, thì cha Robert A. Graham, một cha Dòng Tên người Mỹ lúc ấy đang phụ trách tờ America, và là tác giả cuốn Vatican Diplomacy (Nền Ngoại Giao Vatican), đến tìm tài liệu về đúng thời kỳ ba linh mục đang nghiên cứu, nên ngài được mời tham gia nhóm. Và ngài bắt tay ngay vào việc chuẩn bị cho tập thứ ba đề cập tới Ba-Lan, dựa theo mô thức của tập hai. Sau ba tập ấy, các linh mục quyết định chia các tài liệu còn lại thành hai phần riêng biệt. Phần đầu nối tiếp tập thứ nhất bàn về các vấn đề ngoại giao mang tiêu đề chung là Le Saint-Siège et la guerre en Europe, Le Saint-Siège et la guerre mondiale (Tòa Thánh và Chiến Tranh tại Âu Châu, Tòa Thánh và Thế Chiến) gồm các tập IV, V, VII và XI. Phần thứ hai gồm các tài liệu xếp theo thứ tự thời gian nói về các cố gắng của Tòa Thánh trong việc giúp đỡ các nạn nhân thể xác cũng như tinh thần của chiến tranh mang tựa đề chung là Le Saint-Siège et les victimes de la guerre (Tòa Thánh và Các Nạn Nhân Chiến Tranh), gồm các tập VI, VIII, IX và X. Công việc san định ấy kéo dài 15 năm. Trong khoảng thời gian ấy, các vị thay phiên nhau về chầu Chúa. Cha Leiber qua đời ngày 18 tháng 2 năm 1967. Cha Schneider, trong khi tiếp tục dạy môn sử hiện đại tại Ðại Học Gregoriana, sau khi xuất bản tập các thư gửi các giám mục Ðức, đã dành thì giờ cho phần nói về các nạn nhân chiến tranh và với sự trợ giúp của Cha Graham, đã chuẩn bị các tập VI, VIII và IX và đã hoàn tất chúng vào Lễ Giáng Sinh 1975; nhưng sau đó ngã bệnh và qua đời vào tháng 5 năm sau. Cha Martini, người làm việc toàn thời gian cho dự án này và hầu như tham dự vào tất cả các tập, đã không được diễm phúc thấy công trình hoàn tất. Ngài chỉ được thấy bản in nháp tập cuối cùng vào đầu mùa hè năm 1981 và sau đó cũng đã ra đi vĩnh viễn. Tập XI (tập cuối cùng của bộ tài liệu) được xuất bản cuối năm 1981 do cha Graham và cha Blet san định. Mặc dù lớn tuổi nhất trong số các vị chuyên viên, Cha Graham đã có thể làm việc cho đến khi bộ tài liệu hoàn tất và trong thời gian 15 năm này, còn đảm nhiệm nhiều cuộc nghiên cứu và xuất bản bổ túc phần lớn được công bố trên La Civilta Cattolica, cung cấp cho các sử gia nghiên cứu về Thế Chiến II nhiều nguồn tài liệu quí giá. Ngài rời Rome ngày 24 tháng 7 năm 1996 để trở về California và qua đời tại đó ngày 11 tháng 2 năm 1997.

Cuốn yếu lược của bộ tài liệu

Ðầu năm 1982, còn lại một mình, và sau khi thấy ít người, kể cả các sử gia, biết đến bộ tài liệu trên, cha Blet xúc tiến việc biên soạn một cuốn yếu lược gồm những tài liệu và kết luận chủ yếu lấy từ bộ tài liệu trên. Ngài tin rằng nếu sử dụng khách quan bộ tài liệu này, người ta sẽ biết thực tại cụ thể về thái độ và cách hành xử của đức Piô XII trong Thế Chiến II và do đó những lời tố cáo chống ngài quả là vô căn cứ. Vì các tài liệu ấy cho ta thấy các cố gắng ngoại giao của ngài nhằm tránh cho chiến tranh khỏi xẩy ra. Sự kiện ngài thuyết phục Ðức đừng tấn công Ba-Lan và nước Ý của Mussolini đừng liên kết với Hitler là những việc làm có chứng cớ. Không có vết tích gì chứng tỏ điều được người ta gọi là thiên vị Ðức mà người ta cáo buộc là ngài đã phạm phải trong thời gian làm sứ thần tại nước đó. Các cố gắng của ngài phối hợp với Roosevelt giữ cho Ý khỏi tham dự vào cuộc tranh chấp, các điện tín ngày 10 tháng 5 năm 1940 tỏ bày tình liên đới với các nhà cai trị Bỉ, Hòa Lan và Luxembourg sau cuộc xâm lăng của quân Ðức, và lời khuyến cáo can đảm của ngài để Mussolini và Vua Victor Emmanuel III ký kết hoà ước riêng chắc chắn đi ngược hẳn lại những cáo buộc trên. Quả là nực cười khi nghĩ rằng với cái đội vệ binh Thụy Sĩ trang bị khiên giáo (halberds) và vạ tuyệt thông, ngài lại có thể ngăn chặn được đoàn quân Wehrmatch.

Ủy Ban Sử Học Công Giáo và Do Thái

Năm 1999, Toà Thánh, sau khi công bố tài liệu We Remember nhận lỗi về phần con cái mình trong biến cố Diệt Chủng, đã chứng tỏ một thiện chí vượt bực muốn làm sáng tỏ sự thật liên quan đến vai trò của đức Piô XII nói riêng và của Giáo Hội Công Giáo nói chung trong biến cố đau thương ấy, đã thiết lập ra Ủy Ban Sử Học Công Giáo Do Thái Quốc Tế (The International Catholic-Jewish Historical Commission), để duyệt xét bộ tài liệu ADSS. Ðây là một nhóm bao gồm ba học giả Do-Thái (Michael Marrus, Bernard Suchecky và Robert Wistrich) và ba học giả Công Giáo (Eva Fleischner, Gerald Fogarty và John Morley) được Ủy Ban Liên Lạc Tôn Giáo với Người Do-Thái của Toà Thánh cử nhiệm. Ủy Ban họp phiên đầu tại New York, tháng 12 năm 1999, rồi tại London tháng 5 năm 2000, tại Baltimore tháng 7 năm 2000 và tại New York tháng 9 cùng năm. Ðến tháng 10 năm 2000, nhóm đệ trình lên Đức Hồng Y Chủ Tịch, Edward I Cassidy, phúc trình sơ khởi tựa là The Vatican and the Holocaust (Vatican và Nạn Diệt Chủng). Cốt chính của phúc trình “bao gồm một tuyển lựa những câu hỏi phát sinh từ việc nghiên cứu của chúng tôi về các tài liệu, sau khi vắn tắt tóm lược các hoàn cảnh đưa đến việc thành lập ra Ủy Ban này”.

Còn về chính các tài liệu, Phúc Trình này cho hay: Các cuốn trong bộ ADSS cho thấy tính phức tạp và đa dạng trong các hoạt động do Toà Thánh theo đuổi nhân danh các nạn nhân chiến tranh. Một trong những đóng góp giá trị của chúng là minh hoạ các ưu tiên của Vatican trong thời tranh chấp này. Lúc đó, Tòa Thánh lưu tâm hàng đầu đến mục vụ bí tích của mình, đến các quyền lợi định chế và cả đến sự sống còn của chính Giáo Hội Công Giáo nữa, như đã được minh hoạ, tỷ dụ, qua chính sách ngoại giao dựa vào các tông hiệp (concordat).

Sự đa dạng của các tài liệu, và vấn đề luân lý phát sinh từ một số các tài liệu ấy đã nói lên các cố gắng nghiêm chỉnh của các nhà biên tập, và việc đưa vào tuyển tập các tài liệu mà lúc ấy cũng như sau này từng gây ra các vấn nạn liên quan đến vai trò của Toà Thánh cho thấy các cố gắng của họ nhằm khách quan tính.

Tuy nhiên, phúc trình cho hay tiếp, việc tìm hiểu cặn kẽ các cuốn tài liệu này của Vatican đã không giải quyết dứt điểm các vấn nạn quan trọng về vai trò của Vatican trong thời Diệt Chủng. Không một sử gia nghiêm chỉnh nào có thể chấp nhận rằng những cuốn tài liệu được công bố và biên tập này đã có thể đưa chúng ta đến hồi kết cuộc của câu truyện. Ðiều này không hẳn vì tính phức tạp cũng như khó khăn của chính các vấn nạn, cũng không phải do giá trị biên tập của các cuốn tài liệu. Ðúng hơn, nó phản ảnh sự kiện này là nhiều tài liệu có thể có nhiều cách giải thích khác nhau. Giải thích là điều không thể tránh được trong công trình của các sử gia; nó đặc biệt thích đáng (relevant) và nhậy cảm trong trường hợp này bởi vì Ủy Ban Sử Học đang xử lý với điều chính các nhà biên tập nhìn nhận chỉ là một phần trong các chứng từ hiện có. Một trong các mục tiêu của Ủy Ban là tìm hiểu các hành động của Đức Piô XII và Vatican trong Thế Chiến II, họ đã quyết định như thế nào trong các chính sách theo đuổi, và tại sao. Nhưng khả năng làm việc đó đã bị giới hạn bởi sự kiện này là Ủy Ban, và các học giả nói chung, chỉ được sử dụng một tuyển lựa các tài liệu của Vatican. Một trong các hậu quả tất yếu của việc hạn chế này là một số bình luận gia phải dựa vào những suy diễn, số khác dựa vào những chuyện giật gân.

Theo phúc trình này, các tài liệu công bố thường nêu lên những câu hỏi quan trọng mà không cung cấp câu trả lời. Nguyên sự hiện diện của một tài liệu mà thôi không cho thấy điều gì về việc nó đã được tiếp nhận ra sao, đã chú tâm theo dõi ra sao về việc tiếp nhận nó, hoặc nó đã được coi hoặc xử lý như thế nào trong các giới khác nhau của nền ngọai giao Vatican. Hơn nữa, các nhà biên tập bộ ADSS, cũng như mọi học giả khác, đều đã thai nghén dự án của mình dưới một ánh sáng nào đó, và như thế Ủy Ban không những phải đối diện với trách vụ phân tích nội dung các cuốn sách, mà còn phải khảo sát mục tiêu và đích nhắm của các nhà biên tập.

Phúc trình cũng nhận định rằng nhiều câu hỏi có thể được trả lời bằng cách đọc những dẫn nhập dài kèm theo mỗi cuốn tài liệu, mà linh mục Blet đã cung cấp bản tóm lược, nhưng các câu hỏi khác vẫn còn đó. Trong các dẫn nhập, các nhà biên tập trích dẫn rất nhiều tài liệu, một số được công bố trong bộ tài liệu, số khác không được công bố. Thí dụ trong cuốn I, các nhà biên tập nhắc đến các lá thư do “các tâm hồn lo lắng”, mà tên tuổi không được nêu ra, gửi cho Ðức Giáo Hoàng xin ngài hành động cho hòa bình, đôi khi còn đề nghị cả phương án hành động nữa. Ấy thế nhưng chúng đã không được in trong chính phần thân tài liệu. Cũng vậy, trong phần dẫn nhập cuốn II, các nhà biên tập minh thị trích dẫn ở phần phụ chú (footnotes) một số các thư từ hàng giáo phẩm Ðức gửi cho Đức Giáo Hoàng. Nhưng trong chính bản văn tài liệu, lại chỉ đăng những thư của Ðức Piô XII gửi cho các giám mục Ðức mà thôi.

Phúc trình thêm rằng chính các nhà biên tập nhìn nhận rằng họ sử dụng một số tiêu chuẩn trong việc tuyển lựa các tài liệu cho công bố. Trong Lời Nói Ðầu cuốn I, họ giải thích rằng Phủ Quốc Vụ Khanh tiếp nhận các phúc trình và gửi các chỉ thị có liên quan tới sinh hoạt nội bộ của Giáo Hội Công Giáo lẫn đời sống tôn giáo của các tín hữu, và những phúc trình và chỉ thị ấy không liên quan gì đến các liên hệ quốc tế. Ðây là lý do tại sao cuốn sách hiện tại chỉ giới hạn vào việc công bố những tài liệu dùng để giải thích sự can dự của Tòa Thánh vào các vấn đề liên quan đến cuộc chiến 1939-1945. Các nhà biên tập cũng đưa ra nhận định tương tự trong cuốn II, khi họ ghi chú rằng ‘Ðức Giáo Hoàng xử lý với rất nhiều vấn đề hoàn toàn thuộc nội bộ giáo hội và liên quan đến sinh hoạt tôn giáo’. Nhưng Ủy Ban nghĩ rằng một thế hệ sau, các sử gia có thể nhận ra là có liên quan đến việc nghiên cứu của họ, tất các vấn đề trước đây xem ra như hoàn toàn thuộc nội bộ giáo hội hay có tính tôn giáo thuần túy. Và Ủy Ban đặt câu hỏi: “Như thế chúng tôi có thể đem lại được gì cho cuộc tranh luận mà những người khác không có? Chúng tôi không tự cho mình là chuyên gia về mọi chủ đề trong các cuốn tài liệu đã được công bố, dù tất cả chúng tôi đều là thành phần của một nghiên cứu và đối thoại liên tục chung quanh chủ đề Giáo Hội và Nạn Diệt Chủng. Mỗi người trong chúng tôi đến với Ủy Ban với những cái nhìn rõ rệt dựa trên các công trình trước đây của mình. Chúng tôi hy vọng cung cấp được một chiều kích đa dạng cho một phúc trình có thể phản ánh sự dị biệt và các ý kiến bác học ẩn tàng trong bất cứ cuộc nghiên cứu nào. Sự hợp tác của chúng tôi và việc duyệt xét chung các tài liệu công bố không những làm phong phú hỗ tương mà còn tạo ra một diễn đàn để tra cứu và đối thoại”.

Sau khi nêu ra 27 câu hỏi liên quan đến từng văn kiện riêng rẽ, 14 câu hỏi liên quan đến một hay hai cuốn tài liệu, và 6 câu hỏi tổng quát, Phúc Trình kết luận như sau: “Cuộc điều tra sơ khởi của chúng tôi về 11 cuốn tài liệu đã đưa lại nhiều câu hỏi có ý nghĩa. Những câu hỏi liệt kê trong tài liệu này chỉ là một tuyển lựa các câu hỏi có thể hỏi. Nêu những câu hỏi này lên không nhằm mục đích làm giảm giá trị công trình mấy thập niên đã qua của những người biên tập bộ tài liệu này. Không bộ tài liệu biên tập nào có thể giải quyết dứt điểm một vấn đề lịch sử quan trọng đến như thế. Cũng như mọi sử gia khi làm việc đều chọn nhấn mạnh sự kiện này chứ không sự kiện khác, giới thiệu nhân vật này chứ không nhân vật khác, kể ra biến cố này chứ không biến cố khác, công trình của các nhà biên tập (bộ tài liệu này) cũng đã dựa trên các lựa chọn của họ, hoặc trên căn bản cá nhân hoặc trên căn bản thành viên của cả nhóm…

“Trong việc lượng giá tính đầy đủ của 11 cuốn tài liệu để hiểu vai trò của Vatican trong thời Diệt Chủng, ta cần nên nhớ rằng không sách lịch sử nào về vai trò của bất cứ chính phủ nào trong một vấn đề quá rộng như Nạn Diệt Chủng lại có thể được thực hiện cách hiệu quả chỉ trên căn bản các trao đổi ngoại giao mà thôi, ngay cả khi có những phần phụ thêm, như bộ ADSS thỉnh thoảng có làm. Hơn nữa, các sử gia cần biết tài liệu nào không có trong bộ tài liệu này. Dù các Văn Khố của Toà Thánh không có bản danh mục (inventory), nhưng qua bộ ADSS, người ta thấy rõ ràng có những tài liệu quan trọng có tính lịch sử đã không có trong đó. Một số trong các tài liệu này ghi chép công việc quản trị ngày qua ngày của Giáo Hội và Tòa Thánh. Ðàng khác, có rất nhiều những công văn nội bộ mà nền hành chánh nào cũng để lại hậu thế - nhật ký, thông báo (memoranda), sổ đề cử, biên bản, dự thảo văn kiện, vân vân, là những thứ cho thấy chi tiết diễn trình đạt tới các quyết định của Vatican.

“Nhân nói đến sự hữu ích của việc có được những tài liệu bên ngoài các văn khố chính thức, tưởng thật là hữu dụng nếu được đọc các giấy tờ của những người nổi danh như Luigi Maglione, Amleto và Gaitano Cicognani, Giovanni Montini, Domenico Tardini, Alfredo Ottaviani, Valerio Valeri, Giuseppe Burzio, Angelo Rota, Eugene Tisserant, Filippo Bernardini và các viên chức Vatican khác sống thời bấy giờ. Cũng thế, thật là hữu dụng nếu đọc được các văn khố khác nhau của Dòng Tên, đặc biệt là các giấy tờ của Vlodimir Ledochowski, Robert Leiber, Pietro Tacchi-Venturi, Gustav Gundlach, và Robert Graham.

“Hơn 30 năm đã trôi qua kể từ lúc xuất hiện những cuốn đầu trong bộ tài liệu thời chiến của Vatican. Kể từ lúc đó, nhiều nếu không nói là tất cả các cá nhân sống lúc đó được nhắc đến trong các tài liệu này đã qua đời, nhờ thế đã loại bỏ một số hạn chế trong việc công bố vốn có thể có trong lúc các tài liệu này được tiết lộ lần đầu. Những hạn chế lúc đó chính đáng, nay không còn áp dụng nữa.

“Chúng tôi nhận rằng dù được phép đọc hết các văn khố vẫn không nhất thiết giải quyết dứt điểm các câu hỏi vây quanh vai trò của Tòa Thánh và nạn Diệt Chủng. Dù thế, chúng tôi tin rằng đó sẽ là một bước tiến rất có ý nghĩa để phát huy việc hiểu biết thời kỳ này và gia tăng các liên hệ giữa hai cộng đồng Do-Thái và Công Giáo”.

(còn tiếp)

(1) Viết tắt của Actes et Documents du Saint Siège Relatifs à la Seconde Guerre Mondiale (Các Văn Kiện và Tài Liệu của Tòa Thánh Liên Quan Tới Thế Chiến Hai).
 
Tin Đáng Chú Ý
Tổng thống Barack Obama và Việt Nam
Ngô Nhân Dụng
16:24 21/01/2009
Tuesday, January 20, 2009 Phải gọi đủ họ tên và chức vụ, “Tổng Thống Barack Obama” cho quen. Vì ai cũng phải tập cho quen. Sau khi nhìn ông Obama tuyên thệ và, ngay khi ông được ông chánh án Tối Cao Pháp Viện gọi là “tổng thống,” nhiều người theo dõi chính trị nước Mỹ vẫn còn bỡ ngỡ chưa quen nghĩ đây là ông tổng thống Mỹ. Cậu con trai của một sinh viên từ Kenya tới Mỹ trước đây nửa thế kỷ rồi lại đi, cậu trai đó bây giờ đứng đầu một nước có hiến pháp dân chủ lâu đời nhất, một quốc gia giầu nhất và mạnh nhất thế giới.

Hai triệu người Mỹ có lý do đổ về vùng thủ đô chứng kiến lễ tuyên thệ của ông Barack Obama. Họ muốn có mặt khi lịch sử chuyển mình. Và ở khắp nước Mỹ cũng vậy. Tại Birmingham, Alabama, 5 ngàn người theo dõi lễ tuyên thệ tân tổng thống ở hội trường Boutwell, mang tên một vị thống đốc từng chủ trương phân biệt chủng tộc. Ở hội trường này, năm 1938 người ta ra lệnh 3,000 đại biểu người Mỹ dự một hội nghị phải chia đôi, da đen ngồi một bên, da trắng một bên. Bà Eleanor Roosevelt, phu nhân tổng thống Mỹ lúc đó, đã phản đối nhưng cũng chỉ làm một cử chỉ tượng trưng là kéo ghế của mình ra ngồi chỗ giữa chứ không đứng dậy ra về. Năm 1956, ca sĩ da đen nổi tiếng Nat King Cole đã bị ba người da trắng hành hung trong khi đang trình diễn ở đây. Mục sư già Shuttlesworth hôm qua tới hội trường được vỗ tay vì ông là người đã tranh đấu đòi quyền công dân cho người da đen từ nửa thế kỷ trước. Ông đã bị cảnh sát bắt hơn chục lần, bị bọn Ku Klux Klan đặt bom và đốt nhà, và bị đánh đòn hội chợ khi ông đem đứa con gái tới ghi tên học ở một trường dành cho người da trắng. Nếu không có những người như Shuttlesworth thì không biết nước Mỹ ngày nay đã có một ông tổng thống Obama hay chưa?

Tại thị xã Coalgate, Oklahoma, hồi năm ngoái có 74% phiếu bầu cho Nghị sĩ John McCain trong một tiểu bang ông McCain đại thắng; hôm qua nhiều người đến ăn sáng ở quán để cùng theo dõi lễ tuyên thệ trên truyền hình. Bà chủ là người hâm mộ Nghĩ Sĩ McCain, cho mở máy ti vi suốt buổi, nhận xét: “Hôm nay là một ngày lịch sử. Chỉ buồn là đây lại không phải là John McCain!” Tới buổi trưa, các thực khách đều chăm chú theo dõi buổi lễ tuyên thệ. Bà chủ Barbara Elkins cảm động rớt nước mắt, bà nói, “Tôi không đồng ý với ông ấy về mặt chính trị. Nhưng đây là một ngày lịch sử của dân tộc Mỹ. Hồi xưa có những lúc nếu có khách hàng da đen vào quán thì tôi không được phép dọn thức ăn cho họ. Bây giờ chúng ta có một ông tổng thống da đen.”

Mọi người đã bắt đầu quen với tên ông Barack Obama, với những vấn đề mà ông hay nêu lên và ý kiến của ông đối với các vấn đề đó. Nhiều người Việt Nam ở Mỹ sẽ thắc mắc không biết ông Obama nghĩ gì về cuộc chiến Việt Nam - ông quá trẻ chưa đến tuổi đi lính trong thời chiến tranh đó.

Tổng Thống Barack Obama có nhắc đến cuộc chiến tranh Việt Nam, ở khoảng một phần ba đầu bài diễn văn nhậm chức. Trong đoạn đó ông Obama ca ngợi những tổ tiên của dân tộc Mỹ đã hy sinh nhiều đời để “đưa chúng ta lên con đường dài đặc và gập ghềnh tiến tới tự do và thịnh vượng.” Ông nói rõ hơn về những người đã hy sinh: Những người di dân đầu đến nước Mỹ “đã vượt qua đại dương đi tìm cuộc sống mới;” những người lao động đã “đổ mồ hôi trong các cơ xưởng” hoặc “đi khai phá miền Tây” nước Mỹ; những người đã “chịu những trận roi đòn và cầy bừa mảnh đất cứng rắn.” Và sau cùng, ông viết một câu riêng để nói về các chiến binh Mỹ đã tử trận từ hơn 200 năm qua. Ông Obama nêu tên bốn bãi chiến trường: “Những người đã chiến đấu và đã chết, ở những nơi như Concord; Gettysburg; Normandy và Khe Sanh.”

Chưa có vị tổng thống Mỹ nào vinh danh các chiến binh người Mỹ tử trận ở Khe Sanh như vậy. Obama đã so sánh họ với những chiến sĩ đã bỏ mình ở các trận đánh vinh quang nhất của lịch sử nước Mỹ. Trận Concord (1775) một trận đầu chiến thắng của dân quân Mỹ chống lại đạo quân chuyên nghiệp chính quy của Anh Hoàng trang bị đầy đủ và được huấn luyện tinh nhuệ hơn họ. Trận Gettysburg (1863) vào đoạn cuối cuộc nội chiến Nam Bắc, mà khi khánh thành nghĩa trang ở đó Tổng Thống Abraham Lincoln đã đọc một bài diễn văn ngắn, tuyệt tác. Trận Normandy (1944) xẩy ra khi quân Mỹ đổ bộ lên bờ biển Pháp để đuổi quân Ðức Quốc xã và giải phóng Tây Âu.

Khi nêu tên trận Khe Sanh để so sánh với các trận đánh lịch sử trên, ông Obama đã vinh danh những binh lính và sĩ quan Mỹ đã hy sinh trong cả cuộc chiến Việt Nam. Ông xác nhận đây là một cuộc chiến tranh mà người Mỹ tham dự và đã hy sinh vì những lý tưởng cao cả, không khác gì cha anh họ đã hy sinh ở các chiến trường Concord; Gettysburg; Normandy. Concord là một trận đánh của người dân thuộc địa nổi lên đòi được tự do. Trận Gettysburg diễn ra trong cuộc tranh hùng Nam Bắc với kế quả là kết thúc chế độ nô lệ, và Lincoln đã thề với các tử sĩ là những người Mỹ còn sống phải làm sao để “Những người đã qua đời không ai chết vô ích.” Normandy là nơi các binh sĩ Mỹ đã hy sinh để giải phóng nước Pháp và cả Tây Âu thoát khỏi một chế độ độc tài phát xít.

Tổng Thống Barack Obama đã đặt các tử sĩ ở Khe Sanh ngang hàng với những người Mỹ đã chết để giành độc lập, bảo vệ sự thống nhất của nước Mỹ. Nhưng khi đặt Khe Sanh ngang với Normandy, ông xác nhận việc tham chiến của người Mỹ ở Việt Nam là do cùng một lý tưởng bảo vệ tự do dân chủ; giống như khi quân Mỹ đi giải phóng Âu Châu năm 1944.

Ông Barack Obama là người thường tự soạn lấy các bài diễn văn quan trọng của mình, ông đã xuất bản hai cuốn tự truyện bán chạy và viết rất hay, chúng ta phải tự hỏi tại sao ông lại chọn nêu tên trận Khe Sanh trong tất cả những trận chiến mà người Mỹ đã dự ở Âu Châu và Á Châu từ sau Ðại Chiến Thứ Hai? Một nhà hùng biện như ông, thường nói những câu hai vế như câu đối, có thể chọn bất cứ trận đánh nào ở Á châu để đối với bãi biển Normandy. Vài chục ngàn linh Mỹ đã chết ở Okinawa khi chiến đấu với quân Nhật, có thể chọn tên hòn đảo này đối lại với tên Normandy ở Pháp. Trong trận chiến tranh Hàn Quốc quân Mỹ cũng trải qua những trận chiến khủng khiếp. Nhưng ông Obama đã chọn Khe Sanh, một mặt trận ở Việt Nam trong đó quân Mỹ chỉ thắng vì đã tử thủ được trước chiến thuật thí quân kéo dài của cộng sản.

Ông Obama đã đưa một tín hiệu cho dân Mỹ: Chiến tranh Việt Nam đã thuộc về lịch sử, một lịch sử khá xa, đủ để người Mỹ nhìn lại bằng con mắt thản nhiên. Và khi nhìn trở lại, Obama đã phục hồi ý nghĩa việc tham dự cuộc chiến ở Việt Nam của nước Mỹ.

Các vị tổng thống và phó tổng thống Mỹ gần đây nhất đều đến tuổi thành niên trong thời chiến tranh Việt Nam; họ đều ở tuổi quân dịch lúc đó. Ông Clinton được miễn dịch vì lý do học đại học, nếu không ông đã đeo súng sang Việt Nam rồi. Ông Al Gore đã nhập ngũ, qua Việt Nam làm phóng viên chiến trường. Hai ông George W. Bush và Dick Cheney đều có các lý do để không phải nhập ngũ, không phải tham chiến ở Việt Nam. Hai ứng cử viên tổng thống gần đây đã tham dự chiến tranh Việt Nam là các Nghị Sĩ John Kerry và John McCain, nhưng cả hai không đắc cử. Ông Obama thuộc một thế hệ sau, đàn em của những người trên. Trận Khe Sanh xẩy ra khi ông mới lên 7, 8 tuổi, chiến tranh Việt Nam chấm dứt khi ông mới ngoài mười tuổi. Với vị tổng thống trẻ tuổi này, nước Mỹ có thể khép sổ đối với chiến tranh Việt Nam.

Nhưng khép sổ bằng cách nào?

Tổng Thống Barack Obama đã đặt cuộc chiến tranh chống cộng sản ở Việt Nam thuộc cùng loại với cuộc chiến giải phóng Âu Châu khỏi chế độ độc tài phát xít. Ông Obama đã đặt chủ nghĩa cộng sản cùng một hàng với chủ nghĩa phát xít, khi ông giải thích với người Mỹ: “Nhớ lại rằng các thế hệ trước chúng ta đã đối đầu với chủ nghĩa phát xít và chủ nghĩa cộng sản không phải chỉ bằng hỏa tiễn và xe tăng, nhưng với các liên minh hùng cường và những niềm tin bất biến.” Niềm tin bất biến giúp nước Mỹ hùng cường chính là niềm tin vào tự do dân chủ. Nếu người Mỹ không giữ được niềm tin đó thì ông Obama khó lòng trở thành tổng thống nước Mỹ. Ông Obama nhắc lại về các thế hệ đi trước ông, ít nhất là hai thế hệ đã tham dự các cuộc chiến ở Âu Châu và ở Việt Nam: “Họ hiểu rằng sức mạnh của chúng ta càng mạnh thêm khi chúng ta biết dùng một cách thận trọng; nền an ninh của chúng ta phát xuất từ sự chính đáng của lý tưởng mà chúng ta theo đuổi. ..”

Tân Tổng Thống Obama đã khép hồ sơ chiến tranh Việt Nam với sự khẳng định mục đích người Mỹ theo đuổi ở đó, mặc dù sau họ đã bỏ cuộc, là để thực hiện một chính nghĩa, không khác gì cuộc chiến giải phóng Âu Châu. Chính nghĩa đó là lý tưởng tự do dân chủ.

Chúng ta hy vọng rằng 40 năm sau trận Khe Sanh, ông Obama sẽ lãnh đạo nước Mỹ để tiếp tục thực hiện lý tưởng tự do dân chủ đó ở Việt Nam cũng như ở khắp thế giới, bằng những phương pháp và phương tiện khác. Nếu nước Mỹ không hỗ trợ người dân Việt Nam trong cuộc tranh đấu thực hiện tự do dân chủ thì những lời ông Obama nói hôm qua sẽ không có ý nghĩa nào cả.

(Nguồn: Tuesday, January 20, 2009 http://www.nguoi-viet.com/absolutenm/anmviewer.asp?a=89764&z=7)
 
Văn Hóa
Ánh Xuân Hồng
Phêrô Phạm Bắc Hải
16:03 21/01/2009
Ánh Xuân Hồng

Phút giao thừa huyền diệu thực nhiệm mầu,
Hòa tiết tấu nhạc vang trong vũ trụ.
Làn khí quyện vờn trăng sao tinh tú,
Cả côn trùng khẽ nhẹ tiếng chào Xuân.
Pháo giao đầu vọng tiếng nói nhân gian,
Lời cầu chúc đón Nàng Xuân ấm áp.
Hòa hơi thở hồn lâng lâng từng chập,
Nỗi vui mừng tiếp rước Chúa thời gian.
Trời hừng sáng ánh bình minh ló dạng,
Từng đàn chim ríu rít nhảy chuyền cành.
Đem tin vui thánh thót báo Xuân sang,
Bay lượn khắp bầu trời xanh tươi sáng.
Trên ngọn trúc giọt sương mai lóng lánh,
Nhẹ lăn tròn xuống khóm cúc vỡ toang.
Gió đùa mai nở cánh sắc rực vàng,
Mang điệp khúc Tân Xuân dâng lai láng.
Nàng Xuân đến trong hồn reo điệu múa,
Cất cao lời cảm tạ Hồng Ân Chúa,
Thỏa tâm tư lãnh nhận Phúc Xuân tràn.
Chúc muôn Người Phước-Lộc-Thọ Khang An,
Vui đón Tết Xuân Thanh Bình Hạnh Phúc.


Đón Xuân

Muôn lời vũ trụ tấu hòa vang,
Cung chúc Nàng Xuân viếng địa đàng.
Khí tỏa quyện trăng vờn tinh tú,
Côn trùng khởi xướng vút mây ngàn.
Hừng đông én liệng tin Xuân mới,
Lan cúc mai cười rộ sắc vàng.
Pháo nổ vọng lời Người kính bái,
Đất trời hợp tiếng đón Xuân sang.

Câu Chúc

Xuân trở lại hồn reo thơ quyến luyến,
Rước Xuân Hồng thắp nén hương kinh nguyện.
Chúc muôn Người Phước-Lộc-Thọ Khang An,
Năm Kỷ Sửu Thiên Phúc đổ tuôn tràn,
Vui đón Tết Xuân Thanh Bình Hạnh Phúc.
 
Cây Nêu ngày Tết
Hoàng Đức Trinh
16:45 21/01/2009
Trước đây, ngày Tết đối với đồng bào Việt Nam có nhiều tập tục. Không có những tập tục này, bầu khí Tết sẽ mất đi cái háo hức, cái vui tươi, cái nhộn nhịp… của một lễ hội lớn Một trong những tục lệ đó là cây Nêu.

Cu kêu ba tiếng cu kêu,
Mong sao đến Tết dựng nêu ăn chè
.

Dựng nêu ngày xưa là điều quan trọng linh thiêng trong những ngày chuẩn bị Tết. Trong khi cánh đàn ông con trai trong nhà đi đốn tre về làm cây nêu, thì các bà các cô cũng sửa soạn cho nồi chè cúng tiên nhân về “xem” con cháu chuẩn bị Tết. Chè dựng nêu thường là chè nếp, hay là chè xôi nước (tức bánh trôi). Nêu là một cây tre được đốn lấy cả ngọn, rồi róc hết cành, chỉ chừa lại trên ngọn vài, ba cành nhỏ có ít lá. Cây nêu thường được trồng ở trước sân nhà, phải cao hơn mài nhà, dưới ngọn có treo một vòng tròn bằng tre, cột vào đó lủng lằng những cái khánh bằng đất nung nho nhỏ, gió đánh chạm vào nhau kêu leng keng, trên ngọn nêu có treo một miếng vải đỏ dài, gọi là lá phướn. Theo cha Alexandre de Rhodes, thì cây nêu còn “treo một cái giỏ hay một túi đục thủng nhiều lỗ và đựng đầy thứ tiền bằng giấy vàng giấy bạc” nữa.(LSVQĐN, q.I, ch. 23)

Cây nêu dựng xong. Một người cầm túi vôi bột đi rải thành hình một vòng tròn quanh cây nêu, và hình cung tên bắn ra bốn hướng. Khi vôi rắc xong, thì mâm chè cũng được bưng ra, không cần phài bàn ghế mà đặt ngay bên cạnh gốc cây nêu. Ba thẻ hương được thắp lên, người chủ gia đình vái trước bàn thờ, rồi ra đứng trước cây nêu vái bốn hướng, như để trấn áp ác quỷ tà thần, không cho bén mảng về quấy phá những ngày Tết. Trong khi đó một tràng pháo nổ giòn vang cho quỷ ma khiếp vía trốn biệt. Thế là hoàn tất, mọi người cùng cất chén chè ngọt lịm lên tay, mắt nhìn lên cây nêu, nghĩ đến vế đối ngày Tết: “nêu cao pháo nổ bánh chưng xanh”…

Truyền thuyết về cây nêu đã được nhắc nhiều, mỗi lần Tết đến. Thuở xa xưa, khi dân tộc ta còn sống bán khai, chưa biết giải thích theo khoa học những hiện tượng thiên nhiên tác động đến đời sống, cho nên khi gặp phải tai nạn hay ốm đau, bệnh hoạn… thì nghĩ rằng đó là do quỷ ma trách phạt, hãm hại, quấy nhiễu. Muốn tránh được những tai ách trên thì cầu khẩn Ông Bụt cứu nhân độ thế, ra tay xua đuổi ác quỷ tà thần.

Quỷ sứ bị đánh đuổi mới van xin không dám phạm đến đất của Ông Bụt nữa. Bụt tha cho, nhưng quỷ sứ lại không rõ đâu là đất của Bụt, mới xin Ông Bụt chỉ giáo. Bụt trả lời: “Nơi nào có cột phướn cây nêu và có rắc vôi trắng đó là đất của Bụt” Từ câu chuyện đó các nhà chùa thường có cây nêu cột phướn. Nơi chùa nào không để cột phướn quanh năm, thì những ngày chuẩn bị Tết, vị trụ trì cũng cho đựng một cây nêu, trên cây nêu có ngọn phướn…

Người ta tin rằng, nơi nào có cây nêu cột phướn, nơi đó là đất Phật, quỷ sứ không dám bén mảng tới. Trong cuốn lịch sử Truyền giáo từ năm 1627 đến 1646, có nhan đề là “Lịch sử Vương quốc Đàng Ngoài” quyển thứ I, chương 23, Giáo sĩ Alexandre de Rhodes trình bầy “Về những tục lệ người Đàng Ngoài giữ vào cuối năm và đầu năm…” đã viết: “Có một tục lệ lâu đời nhưng kỳ dị còn giữ ở khắp xứ Đàng Ngoài, đó là những người già, cả nam cả nữ, vào cuối năm, họ sợ sệt trốn trong chùa như một nơi trú ẩn để tránh thế lực tà ma họ gọi là Võ Tuấn. Họ cho rằng việc của vị này là sát hại và bóp cổ hết những người già nua tuổi tác thuộc cả hai giới. Do đó những kẻ khốn đốn này trong ba hay bốn ngày cuối năm, họ đến trú trong nội địa chùa chiền, đêm ngày không dám ra cho mãi tới ngày mồng một Tết mới trở về nhà, vì cho rằng quyền lực của tà ma hãm hại và là thù địch của người già đã chấm dứt. Đó là điều còn xảy ra vào cuối năm nơi người già cả”.

Vì thế, những gia trưởng trong nhà, không muốn cha mẹ già cuối năm phải vào ẩn náu ở trong chùa nữa, nên họ mua vải đỏ về làm lá phướn, cũng dựng cây nêu tại nhà rồi chỉ cho cha mẹ thấy nhà mình cũng thuộc về đất Phật, ma quỷ không dám đến quấy phá, nên các cụ yên trí, cứ việc thong thả nghỉ ngơi tại nhà, mà không sợ quỷ ma hãm hại. Thấy các cụ ở nhà bằng an, từ đó, các gia đình có các cụ già, đều chuẩn bị cây nêu trong những ngày sửa soạn Tết. Cây nêu tràn ra thành tập tục ngoài công chúng như vậy.

Đã là tập tục của cả dân tộc, nên người công giáo cũng không bị cấm đoán. Trái lại phong tục dựng cây nêu còn được các linh mục “rửa tội” cho. Cũng cha Đắc-lộ trong “Lịch sử Vương quốc Đàng Ngoài” quyển II, chương 29, đã viết: “Tới ngày đầu năm, theo tục lệ lương dân, thường có những cúng bái mê tín dị đoan trong ba ngày Tết. Chúng tôi truyền cho giáo dân làm những việc đạo đức trong ba ngày này:

-Để thay thế cái giỏ treo ở đầu cây nêu cao dựng ngay ở cửa nhà như chúng tôi đã nói trong quyển I, thì chúng tôi khuyên họ đặt cây Thánh giá: họ làm theo. Thế là khắp phố phường trong kinh thành người ta xem thấy biểu hiệu đáng kính của việc cứu rỗi được dựng cao vót quá mái nhà, làm cho ma quỷ sợ hãi và các thiên thần vui mừng. Chúa Trịnh cũng nhận thấy khi ngày đầu năm ngài đi qua phố, trong đám rước long trọng.. . Thấy Thánh giá cắm cao chót vót thì ngài nói: đây là biểu hiện của giáo dân.

-Trong ba ngày đầu Xuân, chúng tôi đã cho huấn dụ và cho giữ như sau: Ngày mồng Một Tết kính công việc tạo thành và gìn giữ muôn loài: kính dâng Thiên Chúa Cha. Ngày mồng Hai, nhận biết ơn cứu chuộc cao cả khôn sánh: kính dâng Con Thiên Chúa, và ngày mồng Ba: khiêm tốn cảm tạ Chúa Thánh Linh vì ơn được gọi vào đạo Đức Kitô.

Không ai là không hăm hở làm các việc này, không ai là không vui mừng sung sướng”
.

Ngay từ những ngày đầu Đạo Công giáo đến nước ta, các linh mục thừa sai Dòng Tên đã đem Đạo Chúa hoà nhập vào phong tục tập quán ngày Tết Việt Nam, ngoài việc cây Nêu còn có việc dành ba ngày đầu Năm Mới để kính thờ Thiên Chúa Ba Ngôi, Tập tục này đã được Giáo hội Việt Nam giữ trong lịch phụng vụ hằng năm, mãi đến sau Công đồng Chung Vatican II mới thay đổi như hiện nay.

Từ cây Nêu có giỏ tiền vàng mã, được “rửa tội” thành cây Nêu “có biểu hiệu đáng kính của việc cứu rỗi” là một hội nhập văn hoá tài tình giữa Kitô giáo với phong tục của của con Hồng cháu Lạc. Điều đó chứng tỏ “đạo Đức Chúa Trời là Đạo chung, các người ta mọi nước thiên hạ phải giữ cho được rỗi linh hồn” như giáo lý Kinh Bản Hỏi xưa đã dạy.

Nhân ngày Tết Nguyên Đán, chúng tôi có đôi dòng về cây Nêu dưới con mắt Nhà Đạo. Các thừa sai xưa đã khéo léo hội nhập, hôm nay hy vọng mỗi tín hữu tìm ra được những cơ hội để nhập thế, dù nhỏ bé thôi, nhưng cũng là dịp chúng ta thực thi nhiệm vụ loan truyền Tin Mừng đến người khác.

Kính chúc quý vị Năm Mới An Khang, vui bước trên đường làm chứng cho Chân lý.
 
Năm Trâu tìm hiểu chuyện trâu
Tri Chi
16:55 21/01/2009
Chưa ai xác định con trâu có từ bao giờ, và nó được con người thuần hoá để giúp nông dân cày ruộng vào thời gian nào. Nhưng người Việt Nam khi nói đến trâu thì ai cũng biết. Vì “con trâu là đầu cơ nghiệp”. Nó đã theo giúp đồng bào ta từ thời Nhâm Diên làm quan thái thú quân Cửu Chân, đem phương thức cày bừa, cấy lúa nước hướng dẫn cho dân ta. Từ đó con trâu đã là con vật thân thiết của nhà nông “chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa”.

Nhân ngày đầu năm Sửu, năm con trâu lên chức Hành Khiển theo quan niệm của người xưa, chúng tôi cũng có “ba điều bốn chuyện” về con trâu, để như một món quà chúc Tết đến đồng bào, đến quý độc giả.

Con trâu đầu tiên

Các nhà khoa học chưa nói rõ con trâu xuất hiện trên trái đất vào thời điểm nào. Nhưng theo chuyện cổ tích Việt Nam thì trâu có nguồn gốc từ nhà trời. Trâu xưa là một vị tiên trên trời, mang danh hiệu Ngưu Thần, tính tình điềm đạm, không rượu chè say xỉn, không thích đồ ăn cao lương mỹ vị, mà thú tiêu khiển duy nhất của ông chỉ là mê nghe đàn bầu. Ngưu Thần được Ngọc Hoàng cho giữ một chức vụ quan trọng trong đời sống nhân gian, phụ trách việc sản xuất ra lương thực nuôi sống con người và thú vật trên dương trần. Được giữ một chức vụ sang cả như vậy, Ngưu Thần rất chăm chỉ, lầm lũi làm việc, không quản ngại cực nhọc.

Khi Ngọc Hoàng thấy loài người dưới đất sinh sản ngày càng đông càng nhiều. Nếu chỉ sống bằng săn bắt, hái quả thì không đủ lương thực. Ngài gọi Ngưu Thần đến, trao cho hai thúng hạt giống: thúng màu vàng là lúa, đem gieo vãi trên đồng bằng lưu vực các sông lớn, làm lương thực cho con người. Còn thúng màu xám là hạt giống cỏ, đem gieo trên các bình nguyên ven đồi núi để các thú rừng có thức ăn. Trước khi Ngưu Thần thi hành mệnh Trời, ông tổ chức một đêm chào biệt các bạn đồng liêu. Tất cả các nghệ tiên đàn bầu được mời đến giúp vui. Dĩ nhiên là đôi tai của Ngưu Thần đêm đó vềnh lên để nghe đàn bầu suốt đêm. Đến khi tiếng gọi mặt trời của con gà trống nhà ai đó “ó ò o” cất lên, Ngưu Thần mới giật mình, vôi cắp hai thúng hạt giống bay xuống trần.

Tiếng gió vù vù bên tai lẫn với âm thanh của đàn bầu còn văng vẳng làm Ngưu Thần quay cuồng đầu óc. Ông đáp xuống một ngọn núi, đặt hai thúng hạt giống xuống trước mặt, nhưng lại quên không nhớ thúng nào là lúa giống. Ông bèn nghĩ ngay đến cách làm cầu may, đưa hai tay ra “oản tù tì” bên nào thắng đem gieo xuống đồng bằng. Thế là ông cắp một thúng bay xuống đồng bằng gieo vãi, thúng còn lại, ông gieo quanh vùng đồi núi.

Kết quả, cỏ mọc đầy đồng, còn lúa vì gieo nơi đất cao, thiếu nước nên èo uột không trổ được bông. Cả người và vật đều đói khổ, tiếng kêu thấu trời. Trời ngó xuống, thấy Ngưu Thần làm việc tắc trách, bèn giáng xuống trần, cho làm một con vật bắt phải gặm hết cỏ mới được phục chức, nên có cái bụng to như trống cái đình làng, có cái mõm dài hàm rộng để mà nhai cỏ. Người trần thấy con vật mới cứ lầm lũi kiên nhẫn gặm cỏ, nên muốn giúp nó một tay để trừ cỏ. Sẵn trâu to lớn có sức khoẻ, nên đề nghị trâu kéo cày vỡ đất cấy lúa. Trâu được người giúp, nhăn răng cười ngất đến rớt cả hàm mà không biết, vì tai trâu còn vương vấn tiếng đàn bầu hoá ra nghễng ngãng, bất cần đời. Cũng tại thế nên bị người ta chế diễu mãi là: “đàn bầu đem gẩy tai trâu”. Con trâu có từ ngày đó.

Trâu lên chức Hành Khiển

Cũng theo chuyện cổ tích nước ta thì ngày ấy, con trâu đã theo người ta về nhà để kéo cày, kéo bừa dọn đất cấy lúa. Công việc dương gian ngày càng bề bộn, một mình Ngọc Hoàng làm không xuể, Ngài mới ra chiếu tuyển dụng các chức vụ Hành Khiển để giúp việc điều hành công việc dưới đất cho có quy củ. Chuột là loài thính tai nên nghe biết chiếu sớm nhất. Con trâu thì ngoài công việc cày bừa, rảnh lúc nào là nằm dưới gốc tre lai rai nhai lại mớ cỏ vội vàng vơ vào bụng, chẳng bao giờ để ý đến câu “ăn có nhai nói có nghĩ”, đâu có để ý gì đến chiếu chỉ của Ngọc Hoàng. Cũng may là có chú chuột cùng nhà đi qua, mới rủ rê cho có bạn đồng hành.

Đất có thập nhị địa chi, nên số quan chức Hành Khiển được tuyển là 12 vị. Trước khi đến cửa nhà trời để bái kiến Ngọc Hoàng lãnh nhiệm sở, các viên chức Hành Khiển phải qua sông Ngân Hà. Nếu đợi đến tháng bảy có chim quạ đến bắc cầu Ô Thước đề qua sông thì quá muộn. Thế là các tân chức tỏa ra tìm lối đi vòng. Riêng trâu nhà ta vì quen dầm nước cả ngày, nên anh ta ùm ngay xuống sông, bơi một mạch. Qua được ngân hà, trâu vừa đói vừa mệt, thủng thỉnh gặm vội một mớ cỏ vệ đường trời, vì nghĩ chẳng có ai mà bái kiến Ngọc Hoàng trước mình được. Không ngờ khi vào đến bệ rồng thì con chuột đã đứng hầu ở đó. Thì ra con chuột khôn lỏi, đã leo lên lưng trâu để qua sông mà trâu không để ý. Vốn tính hiền hậu, củ mỉ cù mì, trâu tự yên ủi: cũng nhờ chú Tí rủ, mình mới biết cuộc tuyển chọn này, nên chú ấy đứng nhất cũng phải.

Thế là trâu được giữ chức Hành Khiển năm thứ hai trong thập nhị địa chi. Con trâu gắn liền với tuổi Sửu từ ngày đó.

Trâu Châu Á

Trâu là tên thông dụng của một loại súc vật to lớn, ăn cỏ và nhai lại, đầu có hai sừng, bốn chân có móng guốc xẻ hai, bụng có dạ dầy bốn túi, da và lông thường màu đen, sống ở nơi hoang dã. Trâu được người ta gọi đầu tiên là một loại trong những loài trên, sống tại Ấn-độ, thích đằm nước cả ngày, nên được gọi là trâu nước. Loại trâu nước này sống ở những vùng có khí hậu nóng và ẩm. Khi sống nơi hoang dã, chúng sống từng bầy khoảng 50 con, rất hung dữ, nguy hiểm. Nhưng sau bị con người khuất phục, đem về nuôi, thuần hoá để dùng làm sức kéo cho nông nghiệp. Trâu sống trên các châu lục cũng không giống nhau, mà tùy theo môi trường sống, chúng cũng có những khác biệt.

Ở châu Á, mới đầu trâu nước sống hoang dã, hung dữ có thể đánh nhau với cả sư tử và cọp lớn, nhưng vẫn sợ người, vì người ta săn bắt và phá rừng để canh tác làm mất nơi trâu sinh sống. Trâu Ấn-độ là trâu tiêu biểu của trâu châu Á. Khắp các nước Á châu đều dùng trâu nước để làm ruộng, trâu có thể kéo cày ngay trên cả những ruộng xình lội đến đầu gối. Tại Phi-luật-tân trâu nhỏ con hơn, được gọi là carabao. Tuy nhỏ nhưng cũng hữu dụng cho nhà nông cày bừa. Trâu rừng ở đảo Manh-đa-nao được gọi là tamarau lớn con hơn một chút. Ở một số đảo còn có giống trâu anoa cũng bé con, chưa được thuần hoá. Tại Việt Nam trâu là đại gia súc đứng đầu trong công tác sản xuất lương thực. Từ rất xa xưa trâu đã gắn bó với nông dân “ta đây trâu đấy”. Trâu Việt Nam cũng thuộc dòng trâu nước Ân-độ, miền nhiệt đới khí hậu nóng và ẩm, trâu thích dầm nước cả ngày, lông thưa ngắn có thể nhìn rõ da đen, sừng giãng rộng, có bốn mặt ở gốc, rồi, biến thành hình nón uốn cong vuốt nhọn ở đầu sừng. Trâu đực Ấn-độ rất lớn, có con người ta đo theo độ cong từ đầu sừng nọ đến đầu sừng kia được đến hơn 3 mét.

Người ta cho rằng trâu nước dễ dạy, chúng hiểu được mệnh lệnh của người. Ngoài việc người ta nuôi trâu đề giúp việc làm ruộng. Tại Ấn độ, trâu còn được nuôi để lấy sữa, đem chế thành bơ lỏng. Sữa trâu rừng bổ và có nhiểu chất béo hơn sữa trâu nuôi. Có nơi còn dùng trău để đi hái trái chà là về chế tạo ra dầu

Trâu châu Phi

Trâu châu Phi thật ra có điểm khác với trâu châu Á, tuy cũng sống trong miền khí hậu nóng và ẩm, nhưng người ta xếp chúng vào loại khác. Sừng trâu châu Phi có gốc lớn khoẻ chắc hơn để chúng dùng làm vũ khí tấn công, nên chúng thường hung hăng, luôn thích chọi nhau, nhầt là những chú trâu đực.

Châu Phi là nơi cư trú của hai loại trâu khác nhau. Tùy theo miền chúng sinh sống mà người ta đặt tên cho chúng để dễ phân biệt. Loại trâu rừng sống hoang dã ở miền nam châu Phi to con hơn, màu đen, gọi là trâu Cape, vì chúng sinh sống nhiều ở miền Cape. Sừng trâu Cape không cong vòng lên, mà dẹp như hai bàn tay ôm lên đầu, rũ xuống hai bên trước khi vươn hai mũi nhọn cong lên. Loại sừng này khi húc vào đối thủ rồi xêu lên gây thương tích cho đối thủ. Trâu Cape có nhiều điểm giống trâu nước ở Ân độ về tính hung dữ, dễ nổi khùng chém càn húc bậy. Vì thế, loại trâu này không thể thuần hoá được, chúng rất hung hăng, dữ dằn và nguy hiểm, có thể tấn công giết hại cả sư tử bằng chân dạp, bằng sừng đâm húc xêu lên. Trâu Cape cũng đã giết hại cả nhiều người săn bắt chúng nữa. Ở miền tây và miển trung Phi có loại trâu hoang dã khác, có liên hệ đến giống trâu Cape trên, chúng sống thành từng đàn nơi miền rừng rú. Một trong những loại này được gọi là trâu Congo, vì chúng sống ở miền Congo. Trâu Congo nhỏ con giống trâu tamarau ở Phi-luật-tân, chỉ cao chừng hơn 1 mét.

Trâu châu Mỹ

Trên vùng châu Mỹ có loại động vật to lớn, ăn cỏ được gọi là trâu Mỹ. Nhưng các nhà động vật học cho rằng nó không đích thật là con trâu nên gọi nó là trâu bison. Nó không giống các loại trâu châu Á, châu Phi. Về hình thức nó có cái đầu to. cổ lớn. vai u cao, thon dần xuống mông, chứ không có bụng to kềnh. Lông trâu bison có màu hung đen, dài và rậm ở đầu và cổ, ở cằm và hầu có lông dài và rậm hơn giống như chòm râu. Trên đầu có cặp sừng ngắn, không có độ cong nhiều giống như sừng bò…Về giải phẫu học, trâu bison có 14 đôi xương sườn, trong khi các loại trâu thật chỉ có 13 đôi. Trâu bison to lớn, con đực dài từ 3 tới gần 4 mét, chiều cao đến u vai cũng phải từ 1m7 tới 1m8. sức nặng một con cân từ hơn 7 tạ đến hơn 9 ta. Có những con to lớn đặc biệt nặng đến 1,3 đến 1,4 tấn. Trâu bison cái thì nhỏ hơn.

Trước kia trâu bison sống trên những đồng cỏ bát ngát ở miền Bắc Hoa Kỳ, từ núi Appalachian phía đông cho đến rặng Rockies phía tây. Người thổ dân da đỏ sống nhờ rất nhiều vào trâu bison. Họ săn bắt trâu bison lấy thịt làm thực phẩm, da trâu thì may quần áo che thân. Trước năm 1850, hai mươi triệu trâu bison làm mưa làm gió trên vùng đồng bằng phía tây. Đường xe lửa qua vùng này thường bị đình trệ hàng giờ, vì phải ngừng khi đoàn trâu bison đi ngang qua đường rầy. Những năm nửa cuối thế kỷ 19, vì muốn tiêu diệt nguồn thực phẩm và đồ che ấm của thổ dân da đỏ, người Mỹ trắng đã săn và diệt hàng triệu con trâu bison, đã có người săn trâu nổi tiếng một ngày giết đến 69 con trâu bison, chỉ trong tám tháng trời anh ta đã hạ sát hơn 8 ngàn con trâu, cứ như thế trâu bison hầu như tuyệt chủng.

Đến năm 1889, cả nước Mỹ chỉ còn không đến 1000 con trâu bison. Nên người ta phải bảo vệ chúng. Đã có luật cấm ngặt không được săn trâu bison, đồng thời phải phát triển đàn trâu bison, nên đến nay đã có được hơn 10 ngàn trâu bison ở Hoa kỳ và 3000 trâu bison trên đất Canada.

Trâu Việt Nam

Tại Việt Nam, trâu đã là sức kéo giúp nhà nông canh tác từ xa xưa. Trâu miền Bắc làm việc cực nhọc hơn trâu miền Nam, vì dù kéo cày, hay kéo bừa cũng chì có một con, nên cái ách trên vai trâu có hình chữ V úp, gọi là cái khuẳm trâu. Trâu miền Bắc phải làm việc suốt ngày. Còn ở miền Nam trâu kéo cày, kéo trục đều dùng hai con, cái ách trên vai thẳng, bắc từ vai trâu này sang vai trâu khác, cây mắc vào cày nằm chính giữa cái ách. Trâu miền Nam thường chỉ làm từ tờ mờ sáng cho đến trưa là được nghỉ. Công việc đồng áng của nhà nông miền Bắc thật là vất vả, như đã được mô tả:

Lao xao gà gáy rạng ngày,

Vai vác cái cày tay dắt con trâu,

Bước chân xuống cánh đồng sâu,

Mất nhắm mắt mở đuổi trâu ra cày
.

(Ca dao)

Tuy là vất vả, nhưng nhà nào có con trâu được kể là nhà khá giả, công việc làm cũng không quản ngại, vì đã có con trâu giúp đỡ “trên đồng cạn đưới đồng sâu, chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa”:

Trâu ơi ta bảo trâu này,

Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta.

Cấy cày vốn nghiệp nông gia,

Ta đây trâu đấy ai mà quản công.

Bao giờ cây lúa còn bông,

Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn
.

(Ca dao)

Trâu làm việc cực nhọc mà không hưởng hoa lợi, người chỉ mất công chăn dắt, không tốn thực phẩm, trái lại hoa trái do sức trâu chỉ làm giầu cho con người:

Có trâu, sẵn tằm tơ lúa má,

Không trâu, không hoa quả đậu mè.

Lúa gặt cất lên đã có trâu xe,

Lúa chất trữ lại để dành trâu đạp
.



Trâu dựng nên nông nọ nỗi kia,

Trâu làm đặng căn trên bồ dưới
.

(Lục súc tranh công)

Con trâu thân thiết với con người như vậy, nên người ta đã dùng hình ảnh con trâu làm thành những câu châm ngôn để đời suy gẫm:

-Trâu buộc ghét trâu ăn.

-Trâu bò húc nhau ruồi muỗi chết.

-Trâu chậm uớng nước dơ, trâu ngơ ăn cỏ héo.

-Trâu kén cỏ trâu gầy, trò kén thầy trò dốt.


(tục ngữ)

Nói về con trâu Việt Nam thì còn nhiều chuyện phải bàn lắm. Con trâu đã đi vào chuyện vui, chuyện về xã hội, chuyện về triết lý, chuyện về văn học, v.v… Chúng tôi chỉ xin trưng ra mấy câu ca dao tục ngữ điển hình trên, để quý vị nghĩ đến con trâu nhân năm tuổi của nó.

Trâu lành trâu dữ

Nguyễn Ánh trước khi chiếm ngự ngai vàng, đã phải long đong vất vả, chạy hết nơi này đến nơi kia, ông đã được Đức cha Bá-da-lộc giúp chiếm ngôi vua. Nhưng thời còn bị Tây Sơn săn đuổi vào tận Sài Gòn, Nguyễn Ánh thua phải chạy trốn, đến Rạch Chanh, ông may mắn gặp được con trâu đang đằm dưới rạch, liền nhẩy lên lưng trâu qua rạch, chẳng may trâu hụt cẳng…Trong “Vãn Đức Thầy Vêrô phò tá đức vua Gia Long phục quốc”, Trịnh Khánh Tân đã thuật lại chuyện này:

Tây Sơn nay quyết hằm hằm,

Tàu thuyền chạy riết thẳng nhằm đồn vua.

Súng bắn hung, binh chạy đùa,

Vạn binh, thiên tướng, điều thua bỏ thành.

Vua chạy bộ, tới Rạch Chanh,

Gặp trâu nằm nước, nằm khoanh dưới bùn.

Lên lưng nó lội nửa chừng,

Sông sâu, trâu hụt cẳng chưn nó rày.

Việc này thật rất nên may,

Sấu trừng vua mới bước ngay qua liền.

Sau đó Nguyễn Ánh phải trốn ra đảo Phú Quốc


Đó là chuyện trâu thời vua Gia Long, thời Việt cộng cũng lưu truyền nhiều chuyện về con trâu. Chúng tôi xin thuật lại một chuyện.

Giáo phận Vinh tuy ở sát vĩ tuyến 17, nhưng năm 1954, lại di cư vào Nam ít hơn các địa phận khác. Giáo dân còn lại tới 73% với 62% linh mục không di cư vào Nam. Chính vì thế mà năm 1956 chịu cảnh đấu tố cải cách ruộng đất dữ dằn. Cộng sản Việt Nam theo lệnh quan thầy Trung cộng lập ra những toà án nhân dân, để đấu tố những người mà chúng gọi là cường hào ác bá, địa chủ bóc lột. Dĩ nhiên các nhà xứ cũng bị cướp hết ruộng nương. Toà Giám mục lại càng là mục tiêu phải đấu tố.

Một giáo dân theo cộng sản, trước anh ta là người canh điền cho một nhà giầu. Anh ta được cộng sản cho chăn giữ con trâu của ông chủ đã bị đấu tố chết. Cộng sản muốn lấy đến ruộng của Toà Giám mục, nên chuẩn bị đấu tố Đức cha.Gioan Baotixita Trần Hữu Đức, đang cai quản giáo phận Vinh. Anh canh điền trên được chọn là vai chính để vu khống tội lỗi cho Đức cha. Bài bản đấu tố anh đã học thuộc, anh còn được tập diễn tấn tuổng rất thành thạo.

Hôm chúng tổ chức đấu tố Đức cha, chúng huy động nhân dân đông đảo đến tham dự, anh giáo gian được cho uống rượu ngà ngà đề có can đảm vạch tội vu khống Đức cha, anh ta làm rất bài bản, tỏ ra được thái độ rất căm thù, rất hỗn xược… Cuộc đấu tố được trên đánh giá là thành công. Anh được thưởng hẳn con trâu đang chăn giữ. Anh canh điền hí hửng về đến ngõ, thấy con trâu đang nằm dim dim thong thả nhai lại cỏ. Anh quát mắng mắng thằng con sao không dắt trâu đi ăn. Rồi anh mở thừng cột trâu, dắt nó đứng dậy, định vuốt ve con trâu đã từng làm lụng với anh trong bao nhiêu năm, bằng những lời hãnh diện vui mừng vì từ nay đã có “con trâu là đầu cơ nghiệp” rồi. Không ngờ, con trâu dùng đầu báng ngang một cái, sừng của nó xâu thâu ngang bụng anh. Con trâu vươn cao cổ bêu anh toòng teng trên đầu nó, hung hãn chạy thằng ra bờ sông, hất anh xuống dòng nước đang chảy xiết. Thế là mất tăm tích một con chiên ghẻ đã xúc phạm đến Đấng đã được xức dầu tấn phong.

Hai chuyện trâu trong hai giai đoạn lịch sử, con nào là trâu lành, con nào là trâu dữ còn tùy theo cách phán đoán của bên thiện hay bên ác. Nhưng người ta thường cho trâu có những đức tính tốt như trung hậu, cần cù chịu khó, làm lụng không biết mệt. Bao đời nay, trâu đã “cày ruộng sâu ruộng cạn cho no”, Mãi cho đến nay nông dân ta vẫn còn phải theo đuôi trâu để làm ruộng, nông dân vẫn là tầng lớp nghèo khổ nhất, mặc dầu cộng sản đã “cải cách ruộng đất” từ năm 1956!!!

Tuổi trâu vất vả

Người bình dân thấy trâu chăm chỉ làm việc khổ cực, mà không kêu ca một lời, nên cho rằng người tuổi trâu là người vất vả. Nhưng sống trên đất Mỹ, nhiều người không có tuổi trâu mà cũng phải cày một ngày hai, ba “gióp“, như thế đâu phải chỉ tuổi trâu mới cực.

Trong Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài, chương 15, Cha Đắc-lộ đã viết “Về súc vật thường thấy ở nước Annam”. Khi kể đến con trâu, cha đã viết:

“Trâu thường thì rất cao lớn, vai dô lên, vạm vỡ và rất chăm làm. Chỉ một con cũng đủ để kéo cày, cho dầu cày cắm sâu trong đất. Thịt trâu không đến nỗi xoàng, nhưng thịt bò thì thông dụng hơn và ngon hơn”.

Nhận xét của một linh mục sử gia ngoại quốc, từ những năm đầu thế kỷ thứ 17, về con trâu Việt Nam trên, đã chứng tỏ từ xa xưa trâu đã vẫn chăm chỉ cần cù giúp đỡ nhà nông, cho nên nông dân ta luôn mơ ước có được “ruộng sâu trâu nái” cho cuộc đời sung túc. Nhưng mấy ngàn năm rồi mơ ước ấy vẫn còn là mơ ước.

Kính chúc quý vị một năm mới an khang, thịnh vượng, vạn sự như ý.
 
Táo của UBND Hà Nội báo cáo và làm đơn xin chuyển công tác
Song Hà
17:00 21/01/2009
Muôn tâu Ngọc Hoàng Thượng đế:

Thần vốn là quân thuộc biên chế Thiên đình
Tuân lệnh xuống hạ trần xem xét chuyện thế gian
Sự đời rủi may rồi vận số gian nan
Số không may, thần được cử giám sát một tổ chức vô thần tên là UBND Thành phố Hà Nội.

Suốt năm qua thần thấy mình thật là đắc tội
Nay đã tận năm thần xin bộc bạch đôi lời
Nói ra đây mà thần cứ nghẹn lời
Bởi thần đã chứng kiến nhiều chuyện ngược đời đành nhìn mà bất lực.

Không nói ra thì lòng thần ấm ức
Mà nói ra, thì “ảnh hưởng công tác” như chơi
Vì ở cái ủy ban này kinh lắm Ngọc Hoàng ơi
Nó là của quan, nhưng cứ lập lờ tự nhận tên là “Uỷ Ban Nhân dân” mới láo

Quân cán ở đây một đoàn láo nháo
Cơ cấu là nhiều chứ thực tài được mấy đâu
Cơ cấu rất tinh vi: “Đảng cử - dân bầu”
“Bầu ba - lấy ba” thì thằng mõ làng cũng phải trúng

Vì thế, đội ngũ này động việc là lúng túng
Nhận phong bì thì nhanh chứ có làm việc được đâu
Bắt đầu từ kẻ to nhất quản lý cái yết hầu
Của nhân dân Thủ đô và của toàn đất nước

Phạm Quang Nghị - Thiến sỹ, là người ăn trên ngồi trước
Là một trong mười lăm VIP của triều đình
Nghe nói có học hành mà ăn nói thì linh tinh
Người dân Việt Nam đã biết điều này từ khi Nghị còn là Bộ trưởng.

Nghị tuyên bố: “nhiều sãi thì không ai đóng cửa
Cho nên chùa mất cổ vật thường xuyên”
Xét về khả năng thì chỉ có đổ tội là tài và ăn nói huyên thuyên
Nhưng lạ nhất là càng nói những câu ngu thì càng leo lên chức to hơn trước đó.

Năm vừa qua, trận lụt kinh hoàng bạt vía
Xác nhân dân chết chìm chưa vớt được lên bờ
Người dân Thủ đô đau xót, đói bơ phờ
Bên vực sâu mà không làm gì được

Ba ngày sau Nghị đến và phán điều ngang ngược
“Dân bây giờ so với trước khác xa
Cứ ỷ vào nhà nước chúng ta
Không tự cứu mình, không tự đắp nhà mà… chống lụt”

Tâu Ngọc Hoàng, nghe câu này thì đến Bụt
Đứng hiền lành trong chùa cũng phải nhảy dựng lên:
“Cái thằng đầy tớ nào mà ăn nói linh tinh
Ăn cơm của dân không chịu lo cho dân lại còn đổ tội”?

Biết quần thần đang lên cơn bực bội
Nghị ta liền lên tiếng xin tha
Nhưng đâu ngờ hắn tiếp tục tuôn ra
Rằng: “Trận lụt này chỉ là màn diễn tập”

Đến nước này thì dân các vùng bị ngập
Chỉ biết than rằng sao có những kẻ bất nhân
Ăn nói hồ đồ như đứa tâm thần
Không hiểu có kẻ nào đem hắn đặt vào nơi cung điện?

Tâu Ngọc Hoàng:

Quả là có nhiều điều không biết tâu sao cho tiện
Những mánh lưới làm tiền, những cách tham nhũng hiện nay
Một ủy ban to tướng giữa ban ngày
Nhưng cứ nhắm mắt trước cảnh bần cùng của dân đen khốn khổ

Quan chức, chỉ nói những điều vô bổ
Nào “học tập Bác Hồ, nào chống chủ nghĩa cá nhân”
Dân cứ tưởng rằng họ có phép phân thân
Từ tên cướp ngày bỗng chốc biến thành thần, thành Bụt?

Muôn tâu Ngọc Hoàng:

Đám dân Việt chìm trong cơn ngu dốt
Bởi chính sách từ đầu là “Trí, Phú” diệt trước tiên
Và ngày nay thì hậu quả nhãn tiền
Trí thức cũng như một đám gà, chỉ cho cái gì biết nấy

Thần tâu thế chỉ là những điều mà thần thường thấy
Không dám lạm bàn kẻo mang tiếng “nhục mạ nhân dân”
Rồi mai đây thì quần chúng “tự phát nhân dân”, quan lũ, báo đài
Lại kết tội Táo này là “không có tinh thần yêu nước”.

Nhân chuyện này thần cũng muốn tâu vài điều rất hài hước
Khi giang sơn Việt Nam đang bị gặm nhấm dần dần
Tử Ải Nam Quan, Hoàng Sa xong lại đến những đảo gần gần
Cứ lần lượt bị “nhà nước không thể nào quản lý”

Lòng nhân dân thấy quá là vô lý
Bèn họp nhau phản đối bọn bá quyền
Có đâu ngờ được cảnh sát ưu tiên
Cho cả đám đi vào ngồi trong bót

Có những nhà văn chỉ phát vài đề can dán nón
“Trường Sa, Hoàng Sa là của Việt Nam”
Cùng được chiếu cố cho mời đến đồn công an
Khủng bố cả ngày, chỉ xin về với con thơ mà cũng không thể được

Thần đã từng chứng kiên biết bao điều ngang ngược
Những đứa đứng đầu hành động tựa thần kinh
Có bao giờ mà chủ tịch “Thành phố Hòa bình”
Lại làm công văn cảnh cáo một công dân là Tổng Giuse Ngô Quang Kiệt

Thấy điều này, những người có hiểu biết
Mỉm cười rằng chúng nó đang đểu nhau
“Phế Thải” quả này bị lừa một vố đau
Quan đầu tỉnh mà hành xử như hàng tôm ngoài chợ

Tâu Ngọc Hoàng:

Nói đến đây thì chắc Người đã rõ
Chuyện năm qua Thành phố cướp đất của nhà thờ
Một đống cơ quan như một lũ gà mờ
Đi hết sai lầm này đến đạp lên sai lầm khác

Khi bão lòng dân nổi lên thì hồn xiêu phách lạc
Lại bày trò dùng bạo lực răn đe
Dùng cả bọn đầu đường xó chợ, bọn xì ke
Huy động bằng tiền và cho đưa vào biên chế

Nguyễn Thế Thảo là tên nơi trần thế
Tên ở sổ Nam Tào ghi rõ thánh hiệu Satan
Dốt nát, ngạo đời, nhưng được cái gian ngoan
Nhổ rồi liếm ngay mà không bao giờ thấy bẩn

Ăn nói thì như thằng tâm thần lẩn thẩn
Rằng: “Dự án làm xong, dân vẫn ngập bình thường”
Xót tiền dân mất cả đôi đường
Tiền nuôi đầy tớ, nuôi cướp ngày với cái tên là làm dự án

Tâu Ngọc Hoàng:

Thần biết người dân bây giờ chán ngán
Với lũ cường hào, bọn sâu mọt của dân
Nhưng biết làm sao, quan nha thì ở gần
Kêu một tiếng, chỉ có vào nhà đá

Cả năm qua, bao nhiêu điều dối trá
Bị giáo dân vạch mặt thật là vui
Dự án hai công viên – hai dự án cướp ngày
Được “đặc cách” bằng chó và bảy vòng cảnh sát

Và hệ thống công quyền mục nát
Có dịp trình bày trước mặt thế gian
Dù những tên này quỷ quyệt gian ngoan
Cũng không thể dùng màn thưa mà che mắt Thánh

Ngang nhiên phá phách, cướp đoạt cả vùng đất Thánh
Không ngại gì sự trừng phạt bởi thần linh
Vì chúng vốn chỉ thờ một đấng hữu hình
Đó là vị thần Oa-sinh-tơn trên những tờ “xanh - đỏ”.

Tâu Ngọc Hoàng:

Những di chứng của cái ủy ban này còn đó
Đất nước nhỏ này, có thủ đô to gần nhất thế gian
Thủ đô to chứa được nhiều bọn gian ngoan
Nên những dự án thì hiệu quả nhỏ nhất thế giới

Những cái đó lạ lùng nhưng là điều không mới
Mọi mặt đời sống hàng ngày xuống cấp mới nguy
Con đánh cha, uỷ viên trung ương quay cóp khi thi
Mẹ ép con bán dâm, quan triều đình cưỡng hiếp

Và vô số những tội tầy trời, nghe qua thần đã khiếp
Không dám tâu trình, chỉ sợ vấy bẩn chốn thần linh
Cả xã hội hỗn loạn vô cùng như đại bệnh viện thần kinh
Lo cướp, lo ăn, lo giết nhau và lo hưởng thụ

Hội chợ hoa cuối năm mới xảy ra gần đó
Người Hà Thành đua nhau bẻ, vặt hoa
Tinh thần này đâu có khó nhận ra
Là hệ quả của mấy chục năm “luyện rèn đạo đức người Cộng sản”

Quan quân lừa nhau, chức quyền thì mua bán
Người sống biết nhân tình, vì thế chẳng còn đông
Chợ ma cô đang như buổi lên đồng
Mạnh thằng nào, thì đua nhau tuý luý.

Những từ mỹ miều như đồng bào, đồng chí
Chỉ dùng khi bạo lực đã sẵn sàng
Một đội quân trang bị đến tận răng
Chỉ có một nhiệm vụ nặng nề là “đàn áp dân vô tội”?

Thần tản bộ qua vùng Ba Đình có cái mả nửa chìm nửa nổi
Chứng kiến nhiều đoàn người dân đến kêu oan
Có những người mất cả mấy chục năm
Đằng đẵng kêu oan mà oan không được giải

Đội quân của nhân dân đã bao lần từng trải
Bắt, bạo hành, dùi cui điện, ô tô
Gom dân oan thành từng cụm, từng lô
Để đem ra nơi đồng hoang vất bừa vào đó

Đội quân mang tiếng nhân dân được dùng để cho dân vào rọ
Để bảo vệ bạo quyền, bảo vệ quân cướp giữa trời xanh
Trời ở cao nên chúng cứ lộng hành
Dân thấp cổ nên dân đành ngậm đắng

Đã vậy lại thêm một bầy bắng nhắng
Mang tên là “báo chí nhân dân”
Tiêu tiền dân thì chẳng ngại ngần
Nhưng nô dịch cho phường cướp cạn

Ở Thiên đình hẳn đã nghe những trận
Cả đoàn người nghiện ngập vây Thái Hà
Con nghiện trong tù khi đảng đã thả ra
Thì có bảo giết bố nó ngay nó cũng giết

Và cứ thế chúng đua nhau gào “giết Kiệt”
Được cảnh sát bảo kê nên chúng rất sẵn sàng
Báo chí khen: “Những quần chúng anh hùng
Là tự phát (tiền) vì lòng yêu nước” (!)

Và không thể kể ra đây hết những trò ngang ngược
Của cả dàn báo chí, tivi
Ăn của dân để ngồi ngẫm ngồi suy
Làm được những gì dù thiệt dân nhưng miễn là lợi… đảng.

Vài hôm nay đây dân tình đang choáng váng
Cuộc thưởng tài báo chí, truyền hình
Dĩ nhiên những thằng bồi bút được giải đầu tiên
Vì đã bán lương tri con người để làm bút nô với giá rất chi là rẻ rúng

Tâu Ngọc Hoàng:

Kể chuyện Thủ đô thì mất thời gian lắm lắm
Người phải cho thần kể đến dăm ngày
Nhưng hôm nay, còn các Táo nơi đây
Thần không nỡ kéo dài để Người phải nghe những điều ghê tởm

Năm nay, nơi hạ giới mùa đông đến sớm
Lụt lội bất thường, thần biết là do Ngài nổi giận mà thôi
Nhưng lũ qua rồi, chỉ có nước sông trôi
Bao rác rưởi vẫn còn nguyên đọng lại

Giờ nghĩ đến nhiệm vụ trước mắt mà thần khiếp hãi
Xin cho Thần chuyển công tác sang châu Phi
Hoặc một nơi xa xôi, có khó khăn gian khổ kiểu gì
Thần cũng xin an tâm để mà công tác

Ở Hà Nội không phải thần biếng nhác
Nhưng nếu đà này thì thần cũng hư hỏng như chơi
Quan lại vô thần nhũng tham như một lũ ma trơi
Hút máu người dân, làm thần rùng mình khi nghĩ đến

Có đủ mọi trò cho quan tiêu khiển
Còn người dân nếu muốn? có nhà tù
Nhìn tương lai trước mắt cứ mịt mù
Thần sợ hãi, Tâu Ngọc Hoàng: Thần sợ

Vì thế hôm nay ngày cùng năm tận
Thần gửi đơn này xin tâu đến Ngọc Hoàng
Xin đại xá cho Thần kẻo Thần chịu tiếng oan
Rằng người của Thiên đình mà không giữ vững lập trường tư tưởng

Vì thần biết môi trường rất dễ dàng ảnh hưởng
“Gần mực thì đen”, có câu đó dưới trần
Mà bây giờ thì mực bốn xung quanh
Nơi thần ở Uỷ ban nhân dân Thủ đô Hà Nội

Cơn bão suy đồi còn nhanh hơn lụt lội
Chỉ sợ lòng người không chống chọi được lâu.
Vì thế hôm nay Thần xin cúi dập đầu
Trước Thiên đình và xin chuyển ngay công tác.

Được như vậy Thần muôn phần đội ơn mưa móc
Của Ngọc Hoàng đã thương đến bản thân
Dù được cử đến đâu, dù đất chuyển, trời vần
Thần cũng cam lòng xin quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ.

Đơn này làm tại cửa Thiên đình ngày cuối năm Mậu Tý
Kính đơn: Táo Uỷ ban Nhân dân Thành phố Hà Nội.
 
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền: Nốt Nhạc Xuân
Thérésa Nguyễn
06:15 21/01/2009

NỐT NHẠC XUÂN



Ảnh của Thérésa Nguyễn

Chào mùa xuân đến rồi

Ngàn hoa đùa khoe sắc hương

Tay trong tay hãy mau vui cùng mùa xuân

Mùa xuân về trên đất trời..

(Trích bài ca Trung Hoa: Khúc Nhạc Mừng Xuân)

Click here to go to PhotoArt Meditation Room - Phòng Ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền